Kiếp sau

Chiếc phản lực City của hãng hàng không Air France tới Paris sau bốn mươi lăm phút. Mọi giấy tờ của phòng tranh đã giúp họ nhanh chóng qua cửa hải quan mà không gặp khó khăn gì. Jonathan đã đặt hai phòng trong một khách sạn nhỏ nằm cuồi đường Bugeaud. Họ để hành lý ở đó, gởi bức tranh vào két an tòan của khách sạn rồi chờ đến khi chiều xuống. Sylvie Leroy, một cộng tác viên đắt lực của trung tâm nghiên cứu và phục chế trực thuộc các Bảo tàng Pháp, tới gặp họ tại quầy bar của khách sạn khi trời vừa tối. Ba người chọn chỗ ngồi kín đáo bên chiếc bàn đặt dưới gầm cấu thang gỗ. Những bậc thang lên xóay hình trôn ốc dẫn tới một trong những lối vào thư viện. Sylvie Leroy chăm chú nghe Jonathan và Clara, rồi cô theo họ vào phòng khách nhỏ nằm giữa hai căn phòng mà họ đã đặt. Clara mở phéc-mơ-tuya hiệu Tia Chớp của chiếc túi da, tháo bức tranh ra khỏi tấm chăn bọc ngoài và gác lên bệ cửa sổ.
- Bức tranh thật tuyệt vời, nữ nhân viên giám định thì thầm bằng một giọng tiếng Anh rất chuẩn xác.
Sau khi quan sát kỹ bức tranh, cô quay lại ngồi vào ghế bành và nói vẻ bất lực:
- Thật đáng tiếc, tôi không thể giúp gì cho hai người, tôi thành thật xin lỗi. Hôm qua tôi đã giải thích rõ ràng với Peter qua điện thọai. Các phòng thí nghiệm của Louvre chỉ dành phục vụ những bức tranh là đối tượng quan tâm của Bảo tàng Quốc gia. Chúng tôi không bao giờ làm việc cho giới tư nhân. Không có yêu cầu khẩn thiết của một quản đốc bảo tàng, chúng tôi không được phép sử dụng trang thiết bị cho người ngòai.
- Tôi hiểu, Jonathan đáp.
- Còn tôi thì không hiểu nổi, Clara tiếp lời. Chúng tôi từ tận Lon don tới đây, chỉ còn hai tuần nữa, chúng tôi sẽ phải chứng minh được đây là một bức tranh thật, mà ở chỗ cô có mọi trang thiết bị cần thiết.
- Chúng tôi hoàn toàn không liên quan gì tới những vấn đề của thị trường, nghệ thuật, thưa cô, Sylvie nói tiếp.
Nhưng đây là một vấn đề nghệ thuật chứ không phải vấn đề thị trừơng, Clara đáp, giọng cương quyết. Chúng tôi đấu tranh để một tác phẩm lớn của một bức danh họa được công nhận, chứ không phải để phá vỡ kỷ lục của các phòng đấu giá.

Sylvie Leroy khẽ ho và mỉm cười.
- Cô cũng không nên đi quá xa, dù sao Peter cũng là người giới thiệu hai người đến với tôi!
- Clara nói đúng sự thật. Tôi là một chuyên gia thẩm định chứ không phải tay buôn, Jonatha tiếp lời.
- Tôi biết anh là ai, anh Gardner, tiếng tăm của anh thật đáng nể. Tôi rất quan tâm tới các công trình nghiên cứu của anh, một vài trong số đó đã giúp cho tôi khá nhiều. Thậm chí tôi đã tới dự các buổi hội thảo của anh tại Miami. Chính ở đó tôi đã làm quen và dùng một bữa tối khá muộn với anh bạn Peter của anh, chỉ có điều tôi đã không có may mắn gặp được anh. Anh đã về mất rồi.
Sylvie Leroy đứng lên và nắm tay Clara.
- Tôi rất vui mừng được làm quen với hai người, cô nói với Jonathan trong lúc ra khỏi căn phòng.
- Chúng ta làm gì bây giờ? Clara hỏi khi cánh cửa đã khép lại.
- Vì tôi cần phải có một chiếc máy chụp bằng tia hồng ngọai, một máy chiếu cao áp, phổ kế plasma và kính quét hiển vi điện tử, tôi nghĩ rắng đi dạo một vòng Paris có lẽ là điều thích hợp nhất nên làm, tôi biết khá rõ nơi chúng ta tới.

* * *

Chiếc ta-xi chạy khá nhanh trên con đường dọc bờ sông. Từ chân cầu Trocadero nhìn ra, hàng ngàn ngọn đèn nhấp nháy trên tháp Etiffel phản chiếu xuống mặt nước sông Seine. Mái vòm bằng vàng của cung điện Invalides tỏa sáng trong bầu không khí dìu dịu của cung điện Invalides tỏa sáng trong bầu không khí dìu dịu của buổi tối mùa hè. Chíêc xe thả họ dưới chân tòa nhà của bảo tàng Orangerie. Trên quảng trường Concorde, một ông già cô đơn lang thang giữa hai đài phun nước. Từng chùm tia nước phun ra từ miệng các bức tượng. Clara và Jonathan im lặng bước dọc theo bến song. Đi dọc theo bến song. Đi dọc theo phố Tuileries, nhìn những hàng cây hai bên các lối đi dạo, Jonathan chợt nghĩ tới những khu vườn Boboli.
- Khi nào tới Boston, chúng ta sẽ đi dạo cùng nhau dọc theo bờ sông Charles chứ? Clara hỏi.
- Tôi hứa với cô, Jonathan trả lời.
Hai người đi qua Cổng Sư Tử (nguyên tác tiếng Pháp: Porte des Lions) . Dưới chân họ, trong tầng hầm nằm dưới sân Bảo tàng Louvre là những phòng thí nghiệm của trung tâm nghiên cứu và phục chế của Bảo tàng Pháp.

* * *

Sylvie Leroy chuẩn bị bước xuống tầng hầm của ga tàu điện ngầm đúng lúc chuông điện thọai di động của cô reo vang. Cô dừng lại phía trên bậc cầu thang và đưa tay vào túi xách. Khi cô bật máy, Peter cao giọng hỏi cô đang làm gì khi không có anh bên cạnh trong cái thành phố lãng mạn nhất thế giới này.

* * *

Anna đi lại trước giá vẽ để hòan thành nốt những chi tiết cuối cùng của một bức tranh. Cô lùi lại để chiêm ngưỡng sự trau chuốt trong tác phẩm của mình. Một loạt tiếng bíp reo lên từ phòng bên. Cô đặt cây cọ vẽ xuống một chiếc cốc bằng đất nung và đi tới ngồi nơi bàn làm việc kê sát một trong những cửa sổ nắm cuối xưởng vẽ. Cô mở máy vi tính, gõ mã số cá nhân lên bàn phím và tra chiếc thẻ số hóa vào một đầu từ; ngay lập tức màn hình hiện lên một loạt ảnh. Tấm ảnh đầu tiên chụp từ ngòai phố cho thấy Jonathan và Clara đang ngồi cạnh nhau ngắm một bức tranh trong phòng tranh tại Albermrle, trên tấm thứ hai, ánh sang yếu ớt từ cột đèn phủ một lớp màu cam lên con phố nhỏ vắng vẻ, song ánh mắt họ nhìn nhau lại chẳng nhợt nhạt chút nào. Trong tấm thứ ba, Jonathan và Clara đang đi dạo trong khu vườn của một tòa trang viên theo kiểu Anh. Những tấm khác chop cảnh hai người đang ngồi bên chiếc bàn sau lớp kính của một quán cà phê, rồi đứng đối diện nhau dưới mái hiên khách sạn Dorchester. Trên tấm ảnh thứ sáu, Jonathan đang đứng chống khuỷu tay xuống quầy bar của sân bay, Clara ngồi bên chiếc bàn sát cửa kính phía trên đường băng. Một hình phong bì nhỏ nhấp nháy ở góc dưới màn hình. Anna tải xuống máy dự liệu đính kèm thư điện tử mà cô vừa nhận được. Một lọat ảnh kỷ thuật số mới tự động chạy vào kho ảnh mở sẵn trong máy tính của cô. Anna xem kỹ từng tấm một. Ở Paris, cuối phố Bugeaud, Clara và Jonathan đang bước xuống bậc thang của một khách sạn nhỏ. Tấm ảnh cuối cùng chụp họ đang bước lên xe ta-xi, trên đó hiện con số chỉ 9 giờ 12 phút tối. Anna nhấc điện thọai và bấm số gọi ra ngọai ô...


* * *
 
Anh sẽ cứu thóat Peter khỏi một hòan cảnh rất tế nhị và khiến cho tài năng của Vladimir Radskin được thừa nhận xứng đáng. Hơn thế nữa, có thể anh sẽ hiểu thêm được điều gì đó trong chuỗi song kiện kỳ dị đã ngăn không cho anh được ôm Clara trong vòng tay. Bàn tay anh lướt nhẹ gần sát khuôn mặt Clara mà cố tránh không chạm vào da cô.
- Nếu như em biết, anh khao khát được chạm vào em như thế nào, anh nói.
Clara lùi lại và quay người đứng đối diện với anh. Cô tỳ tay lên lan can. Sương đêm phủ một lớp mỏng lên tóc cô.
- Em cũng vậy, cô thì thầm và nhìn nước chảy dưới sông Seine.
Điện thọai của Jonathan reo vang. Anh nhận ra giọng nói của Sylvie Leroy.
- Tôi không biết ông đã thuyết phục như thế nào, thưa ông Gardner, nhưng những người quen của ông rất có thế lực. Sáng mai tôi sẽ chờ ông ở phòng thí nghiệm. Cửa vào nằm ngay sau cổng Lions, trong sân bảo tàng Louvre. Hãy đến vào lúc bảy giờ sáng, cô nói thêm trứơc khi cúp máy.
Peter quả có những mối quan hệ đặc biệt, Jonathan nghĩ thầm khi rời nhà hàng.
Buổi sáng sớm, Trung tâm Nghiên cứu và Phục chế cuả các Bảo tàng Pháp vẫn còn đóng cửa, Jonathan và Clara bước xuống những bậc thang dẫn tới sân của Bảo tàng Louvre. Sylvie Leroy đứng chờ họ sau cánh cửa bọc thép của phòng thí nghiệm. Cô quét thẻ của mình qua đầu đọc và cánh cửa lập tức trượt tự động vào trong tường. Jonathan bắt tay cô, rồi cô mời họ đi theo.
Nơi này quả là vô cùng hiện đại. Những dãy hành lang bằng kim lọai vắt ngang các gian phòng rộng mênh mông, nơi rất nhiều nhà nghiên cứu, kỹ thuật viên và nhà phục chế ngày đêm làm việc. Một trăm sáu mươi người làm việc trong nhiều dự án khác nhau của trung tâm. Là tác giả của những sang chế về công nghệ hiện đại nhất trong lĩnh vực bảo tồn nghệ thuật, các nhà nghiên cứu của chương trình C2RME, những người gìn giữ phần lớn ký ức của các nền văn minh đã cống hiến cả cuộc đời để phân tích, xác định, phục chế, bảo quản và thống kê những tác phẩm lớn nhất của kho tàng di sản.

Nếu không phải là con ngừơi kín đáo, thì những ai làm việc ở Trung tâm nghiên cứu và phục chế của các Bảo tang Pháp đã có thể rất tự cao về tài năng của bản thân. Những ngân hàng dữ liệu mà các nhà nghiên cứu xây dựng nên sau nhiều năm đã được thừa nhận và sử dụng trên tòan thế giới. Rất nhiều tổ chức của Châu Âu và nhiều quốc gia đã liên kết hợp tác với họ. Fraçois Hébrard, trưởng chi nhánh “Tranh cỡ nhỏ” đang chờ họ ở cuối hành lang. Tới lượt ông đưa thẻ của mình lướt qua một máy kiểm tra và cánh cửa tự động nặng trịch của trung tâm nghiên cứu liền được kéo ra. Clara và Jonathan tiến vào một trong những phòng thí nghiệm bí mật nhất thế giới. Rất nhiều gian phòng rộng mênh mông nằm san sát dọc hành lang, ở khu vực trung tâm là một thang máy bằng thép và kính đựoc dùng để lên các văn phòng tầng trên. Vô số màn hình phát ra những quầng sang màu xanh lá cây xuyên qua các vách ngăn kính. Jonathan và Clara bứơc vào một căn phòng có tầng rất cao. Một chiếc máy chụp ảnh khổng lồ đang lướt trên các đường rãnh. Các kỹ thuật viên đặt bức tranh lên một chiếc giá và ngắm nhìn rất kỹ tác phẩm của Vladimir Radskin. Mặc dù có trong tay đủ thiết bị hiện đại, song các nhà nghiên cứu của trung tâm không bao giờ có thái độ coi nhẹ hay hàm hồ đối với một tác phẩm tòan vẹn. Người kỹ thuật viên đảm nhiệm việc chụp ảnh điều chỉnh một lọat ánh đèn chiếu từ các góc độ khác nhau xung quanh bức tranh. Bức tranh Thiếu nữ áo đỏ được chụp dưới ánh đèn chiếu trực diện, rồi bằng tia cực tím và tia cực tím và tia hồng ngoại.

Tất cả những tấm ảnh chụp đặc biệt này sẽ cho phép nhìn thấy những hình vẽ chìm nếu có, những dấu vết sửa chữa họăc những dấu vết phục chế đã được thực hiện trong quá khứ. Bản phổ kế bằng tia hồng ngọai đã không mang lại những kết quả như mong muốn. Để có thể khám phám những bí mật của bức tranh, trước hết phải tìm cách tách rời các yếu tố cấu thành trên nó. Đến cuối buổi sáng, một số mẫu thành phần nhỏ li ti như đầu kim đã được trích ra và dùng hơi ga để thử nghiệm màu sắc. Chiếc máy tối tân cho phép tách ra những phân tử nhỏ nhất cấu thành nên chất sơn. Sau khi có được những kết quả đầu tiên, Fraçois Hébrard gõ chúng vào một trong những máy tính được nối mạng thông tin. Chỉ vài phút sau, máy in bắt đầu chạy.Rất nhiều các đường vạch và sơ đồ bắt đầu được in ra trước mắt họ. Một nhà nghiên cứu bắt tay ngay vào công việc so sánh và chuẩn bị một hệ thống cơ sở dữ liệu. Bầu không khí nóng dần lên trong phòng thí nghiệm. Thiếu nữ áo đỏ đang được quay về phía bên kia mà không ai thấy được khuôn mặt, có lẽ cũng đang mĩm cười khi thấy mình đã gây được một ấn tượng lớn. Từ lúc cô bước và nơi này, các nhà nghiên cứu tập trung mỗi lúc một đông.

Chiếm máy kỳ lạ nhất mà bức tranh sẽ được đưa qua giúp đo được màu sắc. Chiếc máy đo góc-màu-ảnh thô trông chẳng khác gì một máy chiếu phim cũ, song nó lại là một trong những trang thiết bị tối tân nhất và có thể cho kết quả trong vòng chưa đầy một phút. Fraçois Hébrard vồ ngay lấy tờ kết luận, đọc đi đọc lại hai lần rồi chuyển cho Sylvie Leroy. Cả hai nhìn nhau ngạc nhiên. Sylvie Lery thì thầm vài tiếng vào tai ông. François tỏ ra ngập ngừng, rồi ông nhún vai, nhấc điện thọai treo tường và bấm bốn chữ số.
- AGLAÈ có họat động không nhỉ? Ông hỏi bằng giọng tự tin.

Ông chờ máy bên kia trả lời và hài lòng gác điện thọai. Ông kéo tay Jonathan đi theo. Sau khi đã đi qua một cánh cửa an ninh nữa, họ bước vào một khu nhà kỳ quặc. Ngay từ cửa vào, dãy hành lang bê-tông chạy vòng vèo như một mê cung.
- Đây là một cách để chống lại các nguyên tử, ông thì thào. Chúng không đủ thông minh để tìm thấy lối ra!
Đi hết dãy hành lang quanh co ấy, họ tới một căn phòng rộng thênh thang có đặt máy gia tốc phân tử. Hàng chục đừơng ống dẫn được nối vào nhau theo một thứ logic mà chỉ có một vài nhà bác học và kỹ thuật viên mới hiểu được. Chiếc máy Gia tốc Phân tử của Louvre, bảo vật của tòa nhà này, là chiếc duy nhất trên thế giới và được sử dụng chỉ để phục vụ nghiên cứu di sản văn hóa. Sauk hi đã đặt các vật mẫu vào vị trí, Jonathan và Clara đi sang phòng bên cạnh, ngồi vào những máy tính được nối mạng trên đó đang dần hiện ra tiến trình chiếc máy AGLAÉ phân tích trên bức tranh Thiếu nữ áo đỏ.

Ngày làm việc đã kết thúc. Ngồi sau bàn giấy François Hébrard đang xem xét những tài liệu thu thập được Jonathan và Clara ngồi trước mặt ông, hồi hộp như đôi vợ chồng đang ngồi chờ nghe chẩn đoán của một vị bác sĩ nhi. Các kết quả thật đáng ngạc nhiên. Những chất liệu tự nhiên mà Vladimier sử dụng vô cùng đa dạng. Dầu, sáp ong, nhựa thông, bột màu, được pha chế bằng các công thức hóa học phức tạp một cách đáng kinh ngạc. Cho đến thời điểm này, các kết quả phân tích thu được vẫn chưa cho phép kỹ thuật viên của bảo tàng Louvre đưa ra kết luận chắc chắn về thành phần cấu tạo nên màu đỏ được dung để vẽ bộ váy áo của cô gái trong bức tranh. Màu đỏ này tươi một cách khác thường. Điều khó tin là ở chỗ, mặc dù chưa hề phải trản qua bất cứ một quá trình phục chế nào, trông bức tranh lại có vẻ như không hề bị tác động bởi thời gian.
- Tôi chẳng biết phải nói gì với hai người, Hébrard kết luận. Nếu như tất cả chúng tôi không bị chóang ngợp bởi vô số điểm trong kỹ thuật hội họa của Radskin, thì chúng tôi đã cho rằng đây là tác phẩm của một nhà hóa học tài năng.

Hébrard chưa từng gặp một trường hợp nào tương tự trong suốt nhiều năm làm việc ở đây.
- Mặt tranh được quang một thứ dầu mà chúng tôi chưa hề biết đến, và đặc biệt chúng tôi cũng không hiểu lớp dầu đó được dùng với mục đích gì! Hébrard nói thêm.

Thiếu nữ áo đỏ hoàn toàn đi ngược lại mọi quy luật của quá trình lão hóa. Không thể chỉ đơn thuần dựa vào điều kiện hoàn cảnh đặc biệt để giải thích sự bảo tồn hoàn hảo cho bức tranh. Bí ẩn này đã trở thành một thách thức đối với tất cả những nhà nghiên cứu của trung tâm. Vladimir đã làm thời gian khiến cho bức tranh trở nên rực rỡ hơn chứ không hề làm nó bị phai màu? Jonathan tự hỏi khi rời khỏi trung tâm.
- Tôi biết một điều có thể làm cho mọi thứ đẹp lên theo thời gian, Clara nói trong lúc bước lên cầu thang, đó là tình cảm!


Họ quyết định rút ngắn thời gian lưu lại Paris và chỉ kịp ghé qua khách sạn lấy hành lý. Trên đường ra sân bay, Jonathan gọi điện cho Peter để kể lại cho bạn nghe về ngày làm việc của mình. Khi anh tỏ ra thán phục Peter vì đã thu xếp được buổi hẹn gần như không tưởng ấy với các nhà nghiên cứu của Louvre, Peter có vẻ ngạc nhiên.
- Tớ thề với cậu lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng, suốt cả đêm, tớ đã ngủ quên với nỗi tự ái dưới làn gối êm. Sylvie đã chẳng hề đếm xỉa khi tớ gọi điện năn nỉ tối qua. Nói rồi anh bỏ máy.


Chiếc máy bay đưa Clara và Jonathan quay trở lại London hạ cánh xuống đường băng của sân bay City lúc vừa chập tối.
 
Chương 08Bức tranh thiếu nữ áo đỏ được bọc kín trong tấm chăn màu xám và đặt trong chiếc taxi chạy về phía trung tâm thành phố. Jonathan để Clara xuống Notting Hill, trên phố Westbourne Grove.
- Anh đi cùng tôi chứ, cô nói, chắc anh không có ý định ăn tối một mình ở khách sạn phải không?

Họ đi lên cầu thang và dừng lại trên bậc thềm, trước cánh cửa bị phá đang mở toang vào căn hộ của Clara. Jonathan yêu cầu cô xuống phố chờ cho tới khi anh kiểm tra chắc chắn căn hộ đã thực sự an toàn và quay lại tìm cô, song, đúng như anh nghĩ, Clara lao ngay vào trong. Phòng khách không hề bị xáo trộn, phòng ngủ cũng không suy suyển chút nào.

Một lát sau họ ngồi trong bếp chờ cảnh sát khám xét khắp căn hộ. các thanh tra không tìm thấy một dấu vân tay nào. Đồ đạc không mất thứ gì; người đội trưởng cho rằng bọn trộm đã bị đánh động trước khi kịp vào trong. Clara một mực phản đối, một số đồ vật đã không còn nằm đúng chỗ của chúng. Cô chỉ chiếc đèn trên bàn ngủ đầu gi.ường, nó đã bị di chuyển đi vài phân, một chiếc chụp đèn trong phòng khách bị xô nghiêng. Sau khi lấy xong lời khai, các nhân viên cảnh sát chào tạm biệt Clara và Jonathan.
- Nếu tôi ở lại đến sáng mai thì có lẽ cô cảm thấy yên tâm hơn chứ? Jonathan hỏi. Tôi sẽ ngủ trên ghế bành phòng khách.
- Không, tôi lấy vài thứ đồ cần thiết rồi sẽ về trang viên.
- Tôi không thể yên tâm để cô lái xe đi lúc này, trời đã tối mà lại còn mưa nữa.
- Tôi thuộc đường như lòng bàn tay rồi, anh cứ yên tâm.Nhưng Jonathan cảm thấy không thể yên lòng chừng nào cô chưa về đến nơi an toàn. Và cứ nghĩ tới việc cô sẽ ở một mình trong tòa dinh thự, anh lại càng cảm thấy lo lắng, anh nhắc đi nhắc lại chuyện đó. Clara nhìn anh trong lúc anh càu nhàu và khuôn mặt cô chợt sáng lên.
Anh lại chắp hai tay sau lưng, anh nhíu mày còn nhiều hơn cả bình thường và làm ra vẻ mặt của một đứa trẻ lên 5, tôi nghĩ là anh sẽ chẳng còn lựa chọn nào khác cả, anh phải đi cùng tôi thôi!
Clara đi vào phòng ngủ, cô mở ngăn tủ quần áo và sửng sốt, cô nhấc một chồng áo lên, rồi lại nhấc một chồng khác.
- Bọn trộm này đúng là bị loạn trí, cô kêu to gọi Jonathan đang đứng chờ ngoài cửa.
Anh thò đầu vào.
- Chúng đã lấy các kết quả xét nghiệm của tôi!
- Các xét nghiệm nào cơ? Jonathan hỏi.
- Kết quả xét nghiệm công thức máu mà tôi vừa làm tuần trước. tôi chẳng hiểu chúng lấy cái đó để làm gì.
- Có thể đó là câu lạc bộ những người hâm mộ cô.
- Chắc là như vậy, đám này quả thật điên rồ!

Jonathan sửa lại khóa để cánh cửa có thể tạm đóng được rồi họ đi xuống phố, mang theo bức tranh Thiếu nữ áo đỏ. Khi xuống đến vỉa hè, Jonathan dừng lại và nói với Clara.
- Tôi sợ rằng cả ba chúng ta sẽ không thể chui được vào chiếc Austin của cô.
Clara không trả lời mà đưa anh ra phía sau tòa nhà. Trong ngõ nhỏ được lát bằng gạch trơn, một dãy chuồng ngựa cũ đã được sửa thành những ngôi nhà xinh xắn có mặt tiền phủ đầy hoa. Clara kéo một cánh cửa nhà xe lên và nhấn nút chiếc hộp nhỏ lấy từ trong túi. Ánh sáng từ các ngọn đèn pha của một chiếc Land Rover nhấp nháy bừng cả nhà xe.
- Anh có cần tôi giúp để xếp nó vào trong cốp xe không? Cô hỏi và mở nắp thùng phía sau của chiếc xe đi được trên mọi địa hình.

Jonathan đã không nhầm. họ vừa rời khỏi đường cao tốc thì mưa bắt đầu rơi nặng hạt. mặt đường lấp loáng lên dưới bánh xe và những cần gạt nước phải nhọc nhằn lắm để xua bớt nước trên lớp kính. Nhà trọ sau ngã ba gần như biến mất trong bóng đêm, những rãnh nước sâu xuất hiện ngày càng nhiều dọc con đường nhỏ xuyên qua rừng. Mặt đườngmỗi lúc một trở nên khó đi, chiếc xe địa hình lắc hết bên này đến bên kia, trượt hẫng trên lớp bùn dày. Jonathan níu chặt dây nắm phía trên cửa xe, Clara nắm chắc tay lái, cố chống lại những đợt gió mạnh như muốn xô ngã chiếc xe. Những cơn lốc thuồn vào tận trong khoang lái. Cuối cùng thì những thân cây cổ thụ cũng hiện lên trước ánh đèn pha. Cánh cửa sắt của trang viên rộng mở.
- Tôi sẽ đậu xe trong sân, Clara nói thật to. Tôi sẽ mở cửa bếp trước và anh phải ôm bức tranh chạy thật nhanh vào bên trong.
- Đưa chìa khóa cho tôi, Jonathan trả lời.
Không, Clara nhấn giọng, khóa cửa rất khó mở nếu như không quen, anh đừng lo cho tôi.

Những viên sỏi nghiến vào nhau, Clara cho chiếc Land Rover dừng bánh. Cô gần như đánh vật với cánh cửa mới có thể đẩy bật được nó ra ngoài. Vừa mở xong cửa ra vào, cô vội quay về phía Jonathan và ra hiệu cho anh lại chỗ cô.

Jonathan ra khỏi xe và đi về phía nhanh đuôi xe.
Nhanh, nhanh, khẩn trương lên! Clara hét to từ phía cửa tòa lâu đài.

Máu trong người anh như ngừng chảy trong dây lát. Cúi người xuống thùng xe, anh nhìn bàn tay mình đang với lấy bức tranh bọc trong tấm chăn xám và khi Clara hét lên một lần nữa trong bóng đêm: “Nhanh, nhanh, khẩn trương lên”,anh nhận ra giọng nói đã từng vang lên trong cơn mê. Anh đẩy bức tranh về phía hàng ghế sau, đóng thùng xe lại và bước chậm rãi trong luồng sáng phát ra từ ngọn đèn pha. Clara sững sờ nhìn anh, nước mưa tuôn xối xả trên mặt cô. Nhìn ánh mắt anh, cô chợt hiểu và chạy vội về phía anh.
- Em có tin rằng người ta yêu nhau tới mức cái chết cũng không xóa được ký ức không? Em có tin rằng tình cảm sẽ tồn tại vĩnh cửu và mang lại sự sống cho con người không? Em có tin rằng thời gian có thể mãi mãi tái hợp những người yêu nhau mãnh liệt đến đọ không bao giờ mất nhau? Em có tin điều đó không, Clara?
- Em tin rằng em yêu anh. Cô trả lời và ngả đầu vào vai anh.
Jonathan ôm siết cô trong vòng tay, Clara thì thầm vào tai anh.
- Ngay cả giữa ánh sáng và bóng tối.
Họ hôn nhau, nụ hôn đích thực trong vĩnh hằng của họ, như những cảm xúc từ khởi đầu. cây dương già đu mình trong gió, các cánh cửa chớp của tòa lâu đài lần lượt mở tung, và xung quanh họ, mọi vật bắt đầu biến đổi. từ một ô cửa sổ tầng xép, bóng Vladimir mỉm cười.

Đột nhiên, những bìa sách bằng da trên bàn phòng đọc không còn nứt rạn nữa. những tấm ván đánh sáp của các bậc cầu thang sáng bóng lên trong ánh trăng rọi qua những khung cửa sổ phòng khách. ở tầng trên, trong phòng của Clara, những tấm thảm đã trở lại màu sắc ban đầu của chúng. Chiếc váy của cô trượt xuống phía dưới chân, cô bước lại gần Jonathan và áp sát mình vào anh. Họ yêu đương cho tới tận khi trời sáng.

* * *

Ánh ngày lọt vào trong căn phòng. Clara cuộn mình trong tấm chăn Jonathan phủ lên dôi vai cô. Tay cô quơ xung quanh tìm kiếm. cô vươn vai và mở to mắt. chỗ Jonathan nằm trống trơn. Cô chợt vùng dậy. tòa trang viên đã lấy lại vẻ thường nhật của nó. Clara buông rơi tấm chăn, để lộ cả thân mình trong ánh sáng ban mai. Cô bước lại gần cửa sổ và nhìn xuống dưới sân. Khi Jonathan đưa tay vẫy, cô vội lao sang một bên giấu mình sau tấm rèm che.

Jonathan mỉm cười, quay người đi vào trong bếp. Clara đi xuống với anh, trên người khoác một chiếc áo choàng rộng. anh có vẻ bận rộn bên bếp gas. Căn phòng thơm lừng mùi bánh mì nướng. anh hớt lớp bọt sữa nóng bằng một chiếc thìa nhỏ, rót vào cà phê và rắc bột chocolate lên trên cùng. Anh đặt chiếc bát nóng hổi trước mặt Clara.
- Cappucino không đường.
Vẫn còn ngái ngủ, Clara nhô cả mũi vào trong tách và uống một ngụm cà phê.
- Anh có nhìn thấy em bên cửa sổ không? Cô rụt rè hỏi
Hoàn toàn không thấy, Jonathan vừa trả lời vừa loay hoay với một lát bánh mì bị kẹt trong máy nướng bánh, hơn nữa anh cũng sẽ chẳng cho phép mình nhìn, cho đến bây giờ vẫn không hề có chuyện gì xảy ra giữa hai ta.
- Chẳng buồn cười chút nào. Cô làu bàu.
Jonathan rất muốn đặt tay lên vai cô, anh lùi lại.
- Anh biết là chẳng buồn cười chút nào, nhưng dù sao thì chúng ta cũng phải hiểu gì đã xảy đến với mình.
- Anh có địa chỉ của bác sĩ chuyên khoa nào không? Em không muốn thất vọng sớm, nhưng em sợ rằng miêu tả những triệu chứng vừa rồi, có lẽ vị bác sĩ trong làng này sẽ nhốt cả hai ta vào nhà thương điên mất thôi!
Jonathan ném vội vào chậu rửa lát bánh mì cháy đen làm bỏng tay anh
- Anh lại chắp hai tay sau lưng, và dù không nhìn thấy mặt anh song em dám chắc anh đang nheo mắt lại, anh đang nghĩ gì thế? Clara hỏi:
- Trong lần hội thảo anh đã gặp một người đàn bà có lẽ sẽ giúp được chúng ta.
- Bà ấy như thế nào?
- Một nữ giáo sư đang giảng dạy tại Yale, có lẽ anh sẽ tìm được thông tin về bà ta. Sáng thứ sáu này anh sẽ gửi bản báo cáo tới các thành viên trong ban quản trị của Christie’s, rồi đi ngay buổi tối.
- Anh sẽ về Mỹ phải không?

Jonathan quay đi và Clara để anh yên tĩnh một mình. Những việc anh cần thu xếp thuộc về thế giới riêng của anh. Để có được sự bắt đầu, trước hết phải biết nói chia tay.

* * *
 
Jonathan dành cả buổi sáng để ngồi với Thiếu nữ áo đỏ. Đến trưa, anh quay về London giam mình trong phòng khách sạn, để hoàn thành phần kết luận cho bản báo cáo của anh.

Clara đến chỗ anh khi trời bắt đầu tối. đúng vào lúc anh chuẩn bị gởi thư điện tử cho Peter, cô trang trọng hỏi, anh đã suy nghĩ kĩ về quyết định của mình chưa. Xét nghiệm các chất màu không cho phép thực hiện những so sánh đủsức thuyết phục, tất cả các công việc tại phòng thí nghiệm Louvre cũng không cho những kết quả chính xác tuyệt đối. song Jonathan, người dành trọn cả cuộc đời để nghiên cứu Vladimir Radskin, đã xác định được những kỹ thuật dùng để vẽ tranh, nét bút cũng như chất liệu vải của tác phẩm. niềm tin chắc chắn cũng đủ để anh hoàn toàn chịu trách nhiệm và chấp nhận mọi rủi ro khi đứng ra bảo lãnh. Mặc dù không có được một bằng chứng cụ thể, song anh sẵn sàng mang uy tín cã nhân của một chuyên gia để đảm bảo đây là tác phẩm đích thực. sáng thứ sáu, anh ssẽ trao cho những đồng sự của Peter giấy chứng nhận xác thực bức tranh Thiếu nữ áo đỏ do chính tay anh ký. Anh nhìn Clara và nhấn một nút trên bàn phím. Chưa đấy năm giây sau, một chiếc phong bì nhỏ nhấp nháy trên màn hình của Peter cũng như của tất cả các thành viên ban giám đốc hãng Christie’s.

Tối hôm sau, Clara đưa Jonathan đến tận thềm phòng chờ số 4 của sân bay Heathrow. Anh không muốn cô phải đưa anh tới tận cửa an ninh. Họ chia tay nhau, lòng trĩu nặng.

* * *

Trong khi xe của Clara lăn bánh trên con đường quê nước Anh, chiếc máy bay vạch một vệt trắng dài trên nền trời. cũng đêm đó các trục quay máy in bắt đầu cho ra những cột tin trên NewYork Time, Boston Globe và Figaro:

Bức Tranh Cuối Cùng Của Danh Họa Nga Vừa Được Xác Nhận
Bị thất lạc trong gần 140 năm, bức tranh lớn của danh họa Vladimir Radskin lại xuất hiện. được xác thực bởi chuyên gia thẩm định nổi tiếng Jonathan Gardner, bức tranh này sẽ là một điểm nhấn trong buổi đấu giá danh tiếng được tổ chức bởi nhà đấu giá Christie’s tại Boston vào ngày 21 tháng 6 tới, do chuyên gia đấu giá Peter Gwel điều hành.

Bài viết về sự kiện này của một nhà phê bình nghệ thuật cho tờ Corriere delle Sera đã được in lại toàn bộ trên trang nhất của ba tờ tạp chí nghệ thuật quốc tế. Ban biên tập của 6 mạng truyền hình Châu Âu và Mỹ đã quyết định cử các nhóm phóng viên tới tận nơi.

Jonathan về đến Boston lúc chập tối. khi anh bật di động lên, hộp thư thoại đã đầy đến mức không thể nhận thêm lời nhắn nào nữa. chiếc taxi đưa anh về khu cảng cũ. Anh vào ngồi ở một quán cà phê ngoài trời, nơi đã từng chung biết bao kỷ niệm với Peter, Jonathan gọi cho bạn.
- Cậu có chắc chắn về việc mình làm không? Đó không phải là một phút bốc đồng chứ?
Jonathan áp sát điện thoại vào tai.
- Peter, giá mà cậu biết được điều gì đang đến với tớ.
- Cậu đòi hỏi tớ hơi nhiều rồi đấy! tớ có thể hiểu được tình cảm của cậu, nhưng câu chuyện kỳ quặc cậu vừa kể thì chịu! thậm chí tớ còn không muốn nghe và tốt nhất cậu đừng kể cho bất cứ ai khác nữa, nhất là Anna. Chắc cậu không muốn câu chuyện này được đồn đại khắp thành phố để mọi người cho là cậu điên và tốt nhất là nhốt cậu vào trại, bất kể chỉ còn ba buổi nữa là tới buổi đấu giá.
- Tớ chẳng quan tâm tới buổi đấu giá ấy, Peter ạ.
- Tớ cũng đoán thế, bệnh của cậu nặng rồi đấy! Tớ muốn cậu phải đi chụp phim ngay, không chừng có một dây thần kinh nào đó của cậu bị đứt rồi. cái đám dây thần kinh nhiều khi cũng dễ đứt lắm đấy!
- Peter, cậu có thôi đùa cợt đi không hả? Jonathan nổi cáu.
Hai người chìm vào trong im lặng giây lát, rồi Peter xin lỗi
- Tớ không đùa nữa.
- Tớ đang rất bối rối, chỉ còn hai tuần nữa là đến đám cưới. tớ thậm chí còn không biết nên nói thế nào với Anna.
- Nhưng cậu vẫn phải nói! Chẳng bao giờ quá muộn cả, đừng nên cưới xin trái với lòng mình chỉ vì thiếp mời đã được gửi đi! Nếu đúng là cậu yêu cô người Anh như cậu nói, thì hãy nắm lấy số phận trong tay và hành động đi! Cậu có cảm giác mọi chuyện bế tắc, nhưng giá cậu biết được tớ ghen tị với cậu đến mức nào. Giá cậu biết tớ cũng mong muốn có được một tình yêu như của cậu biết chừng nào. Đừng nên bỏ phí món tặng vật quý giá ấy. Tớ sẽ rút ngắn chuyến đi của mình và rời NewYork ngay ngày mai để về Boston với cậu. Trưa mai chúng ta sẽ gặp nhau tại quán cà phê.

Jonathan lang thang dọc bến cảng. anh nhớ Clara đến quặn lòng và trong vài phút nữa anh sẽ về nhà để nói toàn bộ sự thật với Anna.

Khi anh về, đèn trong nhà đã tắt hết. anh gọi Anna nhưng không có ai trả lời. anh leo lên tận xưởng vẽ của cô. Tới nơi anh nhìn thấy một tập ảnh nằm bừa ra trên bàn làm việc của Anna. Trong một bức ảnh, Clara và anh đang đứng nhìn nhau trên vỉa hè sân bay. Jonathan ôm đầu và ngồi phịch xuống chiếc ghế bành của Anna.
 
Chương 09Mãi gần sáng cô mới về nhà. Jonathan đã ngủ thiếp đi trên ghế salon trong phòng khách tầng trệt. cô đi thẳng vào trong bếp mà không nói với anh nửa lời. Cô rót nước vào máy pha cà phê, đổ cà phê vào phin và nhấn nút. Đặt hai tách cà phê lên bàn, cô mở tủ lạnh lấy ra một gói bánh mì đã cắt lát và hai chiếc đĩa từ trong tủ để bát phía trên bồn rửa, vẫn không thốt lên lời nào. Con dao được cô đặt lên trên chiếc hộp đựng bơ bằng thủy tinh, chỉ có tiếng chân cô khua nhẹ trên nền nhà lát gạch. Sau khi lại mở tủ lạnh, cô nói câu đầu tiên với Jonathan:
- Anh vẫn dùng mứt dâu trong bữa sáng chứ?
Jonathan muốn đến gần cô, nhưng cô chìa con dao cắt bơ ra để dọa anh. Ánh mắt của Jonathan đổ dồn vào lưỡi dao đầu tròn rộng hai phân, cho tới lúc cô vung con dao trước mặt anh.
- Dừng lại Anna, chúng ta cần nói chuyện với nhau.
- Không! Cô thét lên, chả có gì để nói cả!
- Anna, chẳng lẽ em muốn chúng ta sẽ nhận ra sai lầm của mình trong sáu tháng hay một năm nữa sao?
- Im đi, Jonathan, anh im đi.
- Anna, chúng ta đã diễn trò lễ cưới này từ nhiều tháng nay, anh đã hết sức để níu kéo, chỉ vì anh muốn chúng ta yêu nhau, anh thực sự muốn điều đó. Song chúng ta không thể lừa dối tình cảm được.
- Nhưng anh lại có quyền lừa dối người đàn bà mà anh sẽ cưới phải không? Có phải vậy không?
- Anh về đây để nói sự thật với em.
- Từ khi nào anh đã có đủ dũng cảm để thú nhận với tôi sự thật, Jonathan?
- Hôm qua, khi anh nhận thấy cần phải như thế. Anh đã gọi điện từ London về cho em mỗi buổi tối, Anna ạ.
Anna nóng nảy quơ lấy túi, mở phắt ra và lôi một chiếc phong bì có những tấm ảnh khác, ném từng chiếc một vào mặt Jonathan.
- Đây là anh đang ngồi tại một quán cà phê ngoài trời tại Florence, đây là trong một chiếc taxi ở quảng trường Concord, còn đây, tại một tòa lâu đài đáng nguyền rủa ở Anh,và đây nữa, trong một nhà hàng ở London…Anh đã làm tất cả những trò này chỉ trong có một ngày thôi sao? Không phải tất cả những sự dối trá này đều đã xảy ra trước ngày hôm qua sao?
Jonathan nhìn bức ảnh có hình Clara rơi dưới chân anh. Trái tim anh thắt lại thêm một chút.
Em cho người theo dõi anh từ khi nào?
- Từ khi anh gửi cho tôi một bức điện trong đó anh gọi tôi là Clara! Tôi đoán là tên người đàn bà ấy, có đúng không?
Jonathan không trả lời, và Anna lại hét to hơn.
- Có đúng tên cô ta là Clara không? Nói đi, tôi muốn nghe anh nói tên người đàn bà đã làm hỏng cuộc sống của tôi! Anh có đủ can đảm để làm điều đó không, Jonathan?
- Anna, Clara không phải là người đã phá vỡ tình cảm của chúng ta, chính hai ta đã gây ra điều đó, chẳng cần sự tiếp tay của ai cả. mỗi người đã dần xa nhau để theo đuổi cuộc sống riêng, song lại muốn kết hợp hai con đường ấy với nhau. Đã từ lâu chúng ta chẳng còn chạm tới nhau nữa.
- Chúng ta chỉ quá mệt mỏi vì chuẩn bị cho đám cưới, Jonathan, chúng ta có phải là những con vật đâu!
- Anna, em đã không còn yêu anh nữa.
Còn anh, chắc anh yêu tôi điên cuồng chứ?
- Anh sẽ để lại căn nhà cho em, anh là người phải ra đi…
Cô ném cho anh cái nhìn nảy lửa.
- Anh sẽ chẳng để gì cho tôi cả, vì anh sẽ không rời khỏi bốn bức tường này, anh không thể bước ra khỏi cuộc đời tôi như vậy được, Jonathan. Đám cưới sẽ được tiến hành. Ngày thứ bảy, 19 tháng 6, dù anh có muốn hay không, thì tôi cũng vẫn trở thành vợ chính thức của anh cho tới khi nào cái chết chia lìa hai chúng ta.
- Em không thể buộc anh kết hôn với em được, Anna. Dù em có muốn hay không cũng vậy!
- Có thể đấy, Jonathan ạ, tin tôi đi, tôi có thể làm được điều đó.
Ánh mắt cô đột nhiên thay đổi, Anna trở nên bình tĩnh hơn. hai bàn tay cho đến giờ vẫn bấu chặt trên ngực dần dần buông xuống và mọi nét nhăn nhó bực tức trên mặt cô từ từ giãn ra. Cô mở tờ báo ra. ảnh của Jonathan được in trên trang bìa bên cạnh ảnh Peter.
- Mọi chuyện cứ như trong bộ phim truyền hình Bạn tốt của nhau vậy! phải không, Jonathan? Tôi có một câu hỏi cho anh đây. Nếu giới báo chí biết được rằng, nhà chuyên gia đã xác thực cho bức tranh mà có thể sẽ phá vỡ mọi kỷ lục đấu giá trong 10 năm trở lại đây chẳng phải ai khác mà chính là nhân tình của người đàn bà đã rao bán bức tranh, thì ai trong số hai người, Clara hay anh, sẽ vào tù trước vì tội lừa đảo? theo anh thì sao, Jonathan?
Anh sững người nhìn Anna, mặt đất dưới chân anh như nứt làm đôi.
Cô nhặt tờ báo lên và bắt đầu đọc bài báo bằng giọng châm biếm.
- Được giới thiệu bởi một phòng tranh danh tiếng, bức tranh với quá khứ đầy bí ẩn đã được xác thực bởi chuyên gia Jonathan Gardner. Bức tranh sẽ được nhà Christie’s đưa ra đấu giá dưới sự điều hành của Peter Gwel…tên của bạn anh sẽc bị giới chuyên môn tẩy chay, anh ta sẽ bị kết án treo hai năm vì tội đồng lõa. Chính anh sẽ đánh mất danh tiếng của mình, song nhờ có tôi, anh sẽ chỉ bị kết án năm năm. Các luật sư của tôi sẽ có nhiệm vụ thuyết phục quan tòa rằng người tình của anh mới là chủ mưu trong vụ lừa đảo.
Jonathan không muốn nghe thêm nữa. anh quay bước và đi về phía cửa.
- Khoan đã, đừng đi vội, Anna cười khẩy, hãy nghe tôi đọc thêm một vài dòng nữa, tất cả các bài báo này đều tôn vinh anh, anh có thể tự đánh giá…Nhờ sự xác nhận của Jonathan Gardner, bức tranh được ước giá khoảng hai triệu USD có thể sẽ được mua với giá gấp hai hoặc ba lần…
Anna đuổi kịp anh tại sảnh và níu tay áo vest anh lại,buộc anh phải nhìn thẳng vào cô.
- Với một vụ lừa đảo công khai trị giá 6 triệu USD, cô ta sẽ dễ dàng được tặng 10 năm sau chấn song sắt vàt tin buồn cho hai người là trong nhà tù, nam nữ không được giam chung!

Jonathan cảm thấy cơn buồn nôn trào lên. Anh bước vội ra phố và cúi gập người xuống rãnh nước. bàn tay của Anna vẫn đặt trên lưng anh.
Cứ nôn đi, anh yêu, hãy nôn hết ruột gan ra. Khi anh đã lấy lại sức lực để có thể gọi điện và nói với cô ta rằng, anh sẽ không bao giờ gặp lại cô ta nữa, rằng tất cả chỉ là một chuyện qua đường nực cười và anh không hề yêu cô ta. Tôi muốn có mặt ở đó để nghe!

Anna quay gót vào trong nhà. một ông cụ dắt chó đi dạo ngang qua chỗ Jonathan. Ông giúp anh ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào bánh một chiếc xe đậu ngay bên lề đường.

Con chó của ông cụ có vẻ không thích thú mấy với vẻ mặt người đàn ông đang ngồi bệt xuống đường ngang tầm với nó, đưa mõm hất bàn tay anh và cáu kỉnh tìm cách tớp nhẹ. Ông cụ khuyên Jonathan úp mặt vào hai bàn tay và hít thở thật sâu.
- Chỉ là một cơn co thắt dạ dày nhẹ thôi mà! Cụ nói bằng giọng trấn an.
Và như cụ bà nói khi cụ ông trở về sau buổi đi dạo, một bác sĩ, cho dù đã nghỉ hưu, thì vẫn là một bác sĩ.

* * *

Peter chờ anh đã được nửa tiếng ở quán cà phê ngoài trời nơi họ vẫn thường hẹn nhau. Trông thấy Jonathan bước tới, vẻ cáu bẳn của anh biến mất ngay lập tức và anh đứng lên giúp bạn ngồi xuống ghế.
- Chuyện gì xảy ra thế? Anh hỏi giọng đầy lo lắng.
- Chuyện gì đang xảy ra với tất cả chúng ta? Jonathan nhắc lại, vẻ tuyệt vọng

Và trong suốt một tiếng đồng hồ, anh kể cho Peter nghe những gì đã khiến cuộc đời anh rẽ sang bước ngoặt chỉ trong vài ngày.
- Tớ biết cậu cần phải nói gì với Anna. Cậu hãy bảo cô ta biến đi cho khuất mắt.
Peter cáu đến nỗi những người ngồi bàn bên cạnh phải ngừng câu chuyện ngóng sang chỗ hai người.
- Bia của các người không ngon hả? Peter nóng nảy hỏi.
Bọn họ vội đưa mắt đi chỗ khác.
- Cậu không cần phải thô lỗ và gây gổ với họ, điều đó sẽ chẳng giải quyết được gì Peter ạ.
- Cậu không được hủy hoại cuộc đời mình như thế, cho dù bức tranh đó có đáng giá 10 triệu đô thì cũng vậy thôi.
- Nhưng đây không phải là chuyện cuộc đời tớ, mà là của cậu và Clara.
- Thế nên cậu mới co vòi, cậu nói rằng cậu nghi ngờ về sự xác thực của bức tranh và chúng ta sẽ dừng tất cả lại.
Jonathan ném lên bàn một tờ Wall Streer Journal, rồi một tờ NewYork Times, một tờ Boston Globe, và một tờ Washington Post. Tất cả các báo đều đã đăng tin.
- Đó là chưa kể các tuần báo sẽ ra chiều nay cũng như các tờ nguyệt san. Đã quá muộn để có thể lùi bước, tớ đã ký và gửi bản chứng thực tới các đồng sự của cậu ở London. Khi Anna công bố các tấm ảnh mà cô ấy có trong tay với báo giới, chắc chắn sẽ nổ ra một vụ tai tiếng. nhà Christie’s sẽ đâm đơn kiện, các luật sư của Anna sẽ hỗ trợ cho họ, và nếu như chúng ta có tránh khỏi bị kết án tù, mặc dù tớ cũng chẳng hy vọng lắm vào điều đó, thì cả tớ lẫn cậu đều sẽ bị xóa sổ khỏi lĩnh vực này. Còn Clara, cô ấy sẽ bị phá sản. sẽ chẳng còn ai bước chân vào các phòng tranh của cô ấy nữa.
- Nhưng chúng ta vô tội, trời ạ!
- Đúng vậy, song chỉ có ba chúng ta biết điều đó thôi.
- Tớ cứ nghĩ cậu là người lạc quan hơn thế cơ, Peter vừa nói vừa xoắn hai bàn tay vào nhau.
- Tối nay tớ sẽ gọi lại cho Clara, Jonathan thở dài.
- Cậu sẽ nói cậu không còn yêu cô ấy nữa hả?
- Phải. chính vì yêu cô ấy mà tớ sẽ phải nói tớ không còn yêu nữa. Tớ thà mang lại nỗi buồn cho Clara còn hơn lôi cô ấy theo tớ trong nỗi bất hạnh. Đó cũng là yêu, phải không?
Peter sửng sốt nhìn Jonathan.
- Thật sao! Anh đứng chống nạnh nói. Cậu vừa mới đẻ ra một giai đoạn tình yêu dễ khiến cho bà tớ cũng phải bật khóc, và thậm chí kể cả tớ cũng sẽ rơi lệ nếu cậu cứ tiếp tục như vậy. Cậu đã ăn quá nhiều bánh pudding trong lúc ở London phải không?
- Sao cậu ngốc thế, Peter ? Jonathan nói.
- Có thể là tớ ngốc thật nhưng ít ra thì cậu đã cười được, thôi đừng mất công giả vờ nữa, tớ nhìn thấy cậu cười rồi. cậu thấy không, ngay cả khi cùng quẫn nhất, tớ và cậu vẫn có thể đùa tếu được và nếu như cái cô gái sắp trở thành vợ cũ của cậu tưởng có thể khiến cho chúng ta không còn đùa được, thì càng phải chứng tỏ cho cô ta thấy khả năng dồi dào của hai đứa mình.
- Cậu có ý tưởng gì đó chăng?
- Bây giờ thì hoàn toàn không, nhưng hãy tin tớ, tớ sẽ nghĩ ra cách gì đó.
Peter và Jonathan đứng lên, khoác vai nhau cuốc bộ trên lối đi lát đá dọc khu chợ cũ. Peter chia tay bạn vào giữa buổi chiều. trên đường lái xe về nhà, Peter nhấc điện thoại khỏi bảng điều khiển xe và bắt đầu bấm số.
- Jenkins phải không? Peter Gwel, người ông yêu quý nhất trong khu nhà đây, tôi rất cần sự giúp đỡ của ông, Jenkins đáng mến ạ. Ông có thể lên căn hộ của tôi và gom hộ tôi một vài thứ đồ đạc giống như ông chuẩn bị hành lý cho chính mình được không? Ông có chìa khóa và tôi đoán chắc ông cũng biết tôi cất áo sơ mi ở chỗ nào, đúng không? Hãy tha lỗi nếu như tôi có vẻ lạm dụng tình thân giữa hai chúng ta, vì trong thời gian tôi đi vắng, tôi muốn nhờ ông tìm giúp một vài thông tin trong thành phố, tôi cũng không biết tại sao, nhưng lý trí mách bảo tôi rằng trong con người ông có ẩn chứa chút tài năng thám tử. khoảng một tiếng nữa tôi sẽ về tới nơi!
Peter vừa kịp gác máy khi xe của anh bắt đầu chui vào đường hầm.
Anh rời khỏi khu nhà Stapledon lúc chập tối và gửi một lời nhắn khá dài vào điện thoại di động của Jonathan.
- Peter đây, cậu biết không, lẽ ra tớ phải căm ghét cậu, chỉ vì một nụ hôn mà cùng một lúc vừa làm ảnh hưởng tới buổi đấu giá của tớ, vừa phá hoại sự nghiệp của cả hai chúng ta, chưa kể tới đám cưới của cậu mà lẽ ra tớ sẽ là người làm chứng, song điều nghịch lý là tớ lại không hề muốn như vậy. tớ và cậu đều đang trong ngõ cụt nhưng lâu lắm rồi tớ không cảm thấy phấn khích như bây giờ. Tớ không ngừng tự hỏi vì sao, nhưng có lẽ bây giờ thì tớ hiểu ra rồi.
Vừa tiếp tục nhắn vào hộp thư thoại của Jonathan, Peter vừa lục túi áo vest. Mẩu giấy mà anh đã lấy trộm của bạn vẫn nằm sâu dưới đáy túi.
- Lúc ở London, nhìn thấy cậu và cô ấy ngồi trong quán cà phê, tớ đã hiểu chẳng phải bức tranh khiến cậu hạnh phúc đến vậy. những cái nhìn kiểu cậu và cô ấy dành cho nhau thật lạ thường nên chẳng cần khó khăn lắm cũng có thể đoán ra ngụ ý của chúng, vì thế mà anh bạn thân mến ạ, tối nay khi gọi điện cho Clara cậu muốn nói gì cũng được, miễn sao cô ấy hiểu được rằng, ngay cả trong những hoàn cảnh tuyệt vọng nhất cũng vẫn có thể tìm thấy niềm hy vọng. Và nếu như cậu không biết nói với cô ấy như thế nào, thì chỉ cần lấy tớ ra làm dẫn chứng. cậu sẽ không thể liên lạc được với tớ từ giờ cho đến sáng mai, nhưng rồi tớ sẽ gọi điện và giải thích hết cho cậu. tớ vẫn chưa biết phải làm thế nào, song chắc chắn tớ sẽ tìm được cách giải cứu cho chúng ta.

Anh gác máy, bị cắn rứt bởi cảm giác ngờ vực, song rất hài lòng.

* * *
 
Jonathan bước vào xưởng vẽ của Anna. Cô đang đứng vẽ trước giá.
- Anh đầu hàng trước sự đe dọa của em, em thắng rồi, Anna ạ!
Anh quay gót bước đi vẻ cả quyết. ra tới cửa, anh nói thêm mà không quay người lại.
- Anh sẽ gọi điện cho Clara một mình. Em có thể lấy cuộc đời anh, song em đừng hy vọng có cơ hội xâm phạm phẩm cách cô ấy!

Rồi anh bước xuống cầu thang.

* * *

Clara chậm rãi buông máy. Đứng một mình bên cửa sổ trang viên, cô không nhìn thấy cây dương già đuà với trước gió. Những giọt nước mắt lăn tròn từ đôi mắt nhắm nghiền của cô. Màn đêm buông xuống cùng những tiếng khóc bật ra nức nở. trong căn phòng làm việc nhỏ, thiếu nữ áo đỏ dường như cúi người, dường như nỗi buồn đang lan tỏa khắp tòa nhà đã thấm vào tận trong lớp toan và đè nặng lên cả đôi vai cô. Đêm đó Dorothy ở lại trong tòa nhà. Việc cô chủ đã không thể kiềm chế trước mặt bà chứng tỏ nỗi đau này quá lớn để cô có thể một mình chịu đựng. có những lúc sự có mặt của người khác đủ để khiến mọi thứ trở nên êm dịu hơn, cho dù người đó không hé một lời.

Khi trời vừa sáng, Dorothy bước vào phòng làm việc. Bà thổi bùng lửa trong lò sưởi và mang trà tới cho Clara. Bà lại gần cô, đặt chiếc tách lên bàn, quỳ xuống và ôm cô trong vòng tay.
- Rồi em sẽ thấy, để mọi thứ trong cuộc sống có thể đến được với em, không bao giờ được mất lòng tin. Bà luôn miệng thì thầm với cô, và Clara gục đầu vào vai bà khóc cho tới khi trời sáng hẳn.

Khi ánh mặt trời buổi trưa chiếu lên người, Clara choàng mở mắt rồi nhắm lại ngay. Có phải ánh sáng hay tiếng còi xe giục giã ngoài sân đã kéo ra khỏi giấc ngủ? cô tung chăn ra và vùng dậy khỏi chiếc ghế dài. Dorothy bước vào phòng, và theo cung cách y hệt như thời xa xưa, bà dõng dạc thông báo:
- Cô chủ có một người khách từ Châu Mỹ tới!

Peter đứng dậm chân trong bếp, nơi bà Blaxton lúc trước đã yêu cầu anh vui lòng chờ để bà đi hỏi xem cô chủ có sẵn lòng tiếp đón anh hay không. Theo yêu càu nghiêm khắc của Dorothy, Clara chạy lên phòng rửa mặt ở xứ sở của Nữ Hoàng nước Anh, một người phụ nữ không được xuất hiện với vẻ đau khổ trước khách lạ, cho dù đã từng chạm mặt nhau ngoài phố, Dorothy vừa theo chân cô lên gác vừa nhắc lại.

* * *

- Tức là anh ấy yêu tôi? Clara hỏi trong lúc ngồi đối diện với Peter bên chiếc bàn trong bếp.
- Trời ơi! Hai người thật khéo xứng đôi vừa lứa. tôi đã phải qua một đêm dài trong máy bay, phải chạy suốt hai tiếng đồng hồ liền trong một chiếc xe tay lái nghịch, tôi vừa giãi bày mọi chuyện với cô, vậy mà cô lại hỏi tôi cậu ấy có yêu cô không ư? Xin thưa là có, cậu ấy yêu cô, cô cũng như tôi, chúng ta đều yêu cậu ấy, cậu ấy cũng yêu tôi, tất cả chúng tôi đều yêu nhau song tất cả chúng ta đều đang kẹt cứng trong ngõ cụt!
- Ông sẽ dùng bữa trưa ở đây chứ? Dorothy hỏi khi bước vào bếp.
- Bà chưa có gia đình phải không, Dorothy?
- Ông không cần phải bận tâm tới gia cảnh của tôi, chúng ta không ở Mỹ. Dorothy đáp.
- Như thế có nghĩa là bà chưa có gia đình! Tôi muốn giới thiệu với bà một người rất tuyệt vời. một người Mỹ gốc Chicago hiện đang sống ở Boston và vô cùng yêu mến đất nước Anh.

* * *

Jonathan ở lại một mình trong căn nhà. Anna đã ra khỏi nhà từ sáng sớm, phải đến chiều tối cô mới về. anh lên xưởng vẽ để xem thư điện tử, và bật máy tính lên. Các thư mục của Anna đều có mật khẩu bảo vệ, nhưng anh có thể vào mạng Internet. Peter vẫn chưa viết gì cho anh và anh hoàn toàn không muốn trả lời những thư đề nghị phỏng vấn được ồ ạt gửi tới hộp thư điện tử của anh. Jonathan quyết định quay xuống phòng khách. Trong lúc tắt màn hình, con mắt nhà nghề của anh đã bị cuốn hút bởi một chi tiết nhỏ trong một bức tranh của Anna treo trên tường. Jonathan khom người quan sát kỹ bức tranh. Qua ngạc nhiên, anh quan sát một bức khác. Rồi anh bồn chồn mở chiếc tủ to và lần lượt lấy ra từng bức tranh của Anna được xếp vào đó từ bấy lâu. Trên nhiều bức tranh, Jonathan đều tìm thấy một điểm giống nhau khiến máu trong người anh như đông cứng lại. anh vội vã đi về phía bàn làm việc, mở ngăn kéo và lấy ra chiếc kính lúp. Từng bức tranh được anh soi kỹ lại một lần nữa. nằm ở xa xa trong nền cảnh nông thôn, những khu trang viên mà Anna vẽ trông không khác chút nào so với tòa dinh thự của Clara. Bức tranh mới nhất được vẽ từ 10 năm về trước, và lúc đó Jonathan còn chưa hề quen biết Anna. Anh vội vã xuống cầu thang, chạy trên vỉa hè rồi nhảy vào trong xe lái về hướng ngoại ô. Nếu như đường không quá đông xe thì chỉ khoảng hai tiếng anh sẽ tới cổng trường đại học Yale.

Danh tiếng của Jonathan đã cho phép anh gặp thầy hiệu trưởng. ông đứng đón anh trước một dãy hành lang rộng mênh mông có tường bọc gỗ, trên đó treo những bức chân dung của các nhà văn hoặc nhà khoa học có nét mặt buồn buồn. giáo sư William Becker mời anh vào phòng làm việc của ông. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên trước lời đề nghị của anh, ông đã nghĩ anh tới để trao đổi về hội họa, vậy mà giờ đây anh lại hỏi ông những vấn đề khoa học, mà lại chẳng phải thuộc về một môn khoa học chính thống. Becker rất lấy làm tiếc song không một giáo sư nào trong trường giống với sự mô tả của Jonathan, kể cả các giáo sư nữ hoặc nam, cả những người làm việc chính thức lẫn nhân viên hợp đồng, và cũng chẳng có ai dạy môn học mà Jonathan đang đề cập. bộ phận nghiên cứu mà Jonathan nhắc tới đúng là trước kia đã từng nằm trong trường, song đã từ lâu nó không còn tồn tại nữa. nếu Jonathan muốn, anh vẫn có thể đi thăm các nơi trong trường. tòa nhà 625 trước kia từng là nơi giảng dạy những môn khoa học tiên báo nhưng đã để trống kể từ khi bộ phận nghiên cứu đóng cửa.
- Ông làm việc ở đây lâu chưa? Jonathan hỏi người đàn ông thuộc bộ phận duy tu được giao dẫn anh đi tham quan.
- Từ lúc tôi 16 tuổi, mà lẽ ra tôi đã nghỉ hưu cách đây năm năm, vì thế tôi nghĩ là cũng khá lâu rồi đấy. ông O’Malley trả lời.
Ông đưa tay chỉ một tòa nhà lớn bằng gạch đỏ và dừng xe đện trước bậc thềm.
- Đến rồi đây. Ông nói và ra hiệu cho Jonathan đi theo.
Cánh cửa lớn mở ra gian sảnh của tòa nhà 625 rít lên trên bản lề.
- Chẳng có ai đến đây từ 40 năm nay, nhìn cái mớ lộn xộn trong này mà xem. O'Mally nói

Trong mắt Jonathan, ngoài lớp bụi phủ dày trên sàn và đồ đạc,nơi này được gìn giữ khá tốt. gian phòng rộng có tới 10 chiếc bệ được lát gạch men trắng, trên đó vẫn còn để đầy ống nghiệm và những dụng cụ chưng cất.
- Có vẻ như họ nghiên cứu về những vấn đề toán học thực nghiệm, song tôi đã nói với các thanh tra, đúng hơn là họ tìm cách phát minh ra các công thức hóa học tại đây.
- Các thanh tra nào? Jonathan hỏi.
- Ông không biết sao? Tôi cứ nghĩ ông đến đây vì chuyện đó. Cả vùng ai cũng biết chuyện đã xảy ra.

Vừa đi theo dãy hành lang dẫn tới khu dành cho các giáo sư,, O'Mally vừa kể cho Jonathan nghe chuyện gì đã khiến người ta phải vội vã đóng cửa bộ phận nghiên cứu các môn khoa học tiên báo, theo như tên gọi trước kia của nơi này. Có rất ít sinh viên được nhận vào học tại khoa. Đa số những người đăng kí học đều không qua được kì thi sát hạch đầu vào.
- Không những sinh viên phải có học lực giỏi trong tất cả những môn khoa học, mà còn phải là một thần đồng về triết học. Hơn nữa, trước khi được nhận, sinh viên còn phải trải qua một buổi phỏng vấn với bà giám đốc bộ phận nghiên cứu trong trạng thái thôi miên. Chính bà ta là người lọai bỏ hầu hết các sinh viên. Chẳng ai làm bà ta hài lòng. Bà ấy quả là một con người kì lạ. bà ấy đã làm việc 10 năm trong bốn bức tường ở đây, song trong suốt cuộc điều tra, không ai nhớ đã từng gặp bà ấy ở trong trường này. Tất nhiên là trừ tôi ra.
- Ông vẫn chưa nói cho tôi biết người ta đến điều tra về việc gì?
- Cách đây 40 năm, có một sinh viên đã mất tích.
- Mất tích ở đâu?
- À, đó mới chính là vấn đề, thưa ông. Nếu như ông biết chìa khóa của ông bị mất ở đâu thì đã chẳng thể bảo là bị mất, đúng không?
- Thế cảnh sát kết luận thế nào?
- Rằng cậu ta đã bỏ trốn, nhưng tôi chẳng hề tin.
- Vì sao?
- Vì tôi biết cậu ta đã biến mất trong phòng thí nghiệm.
- Có thể anh ta đã lọt khỏi tầm nhìn của ông, dù sáo mắt của ông cũng không thể bao quát hết được.
- Hồi đó, O'Mally nói tiếp, tôi làm việc trong đội bảo vệ. thời ấy “an toàn” vẫn là một từ vĩ đại. công việc của chúng tôi chủ yếu là ngăn không cho các cậu sinh viên ban đêm trốn ra lảng vảng bên khu nội trú dành cho các nữ sinh và ... ngược lại.
- Thế còn ban ngày?
- Giống như những người trực đêm khác, chúng tôi ngủ ban ngày; đúng hơn là hai đồng nghiệp của tôi ngủ, còn tôi thì không. Tôi không bao giờ ngủ quá 8 tiếng, hình như đó là di truyền, chính vì lý do đó mà tôi bị vợ bỏ. Vì thế nên buổi chiều hôm ây tôi ra tỉa cỏ. Còn cậu sinh viên Jonas, tôi đã nhìn thấy cậu ấy đi vào trong tòa nhà và cậu ấy không bao giờ trở ra.
- Thế cảnh sát không tin lời ông à?
- Họ đã dò khắp các bức tường, đã cào khắp các vườn hoa, đã hỏi cung mụ già, ông còn muốn họ làm gì hơn được nữa? Vả lại hồi đó tôi cũng có uống chút rượu, mà ông biết đấy, một nhân chứng mặt đỏ gay thì không được tin cậy lắm.
- Thế mụ già mà ông nói đến là ai vậy?
- Chính là bà giám đốc, mời ông theo tôi.
O'Mally tìm một chiếc trong chùm chìa khóa, mở cửa một phòng làm việc và bước vào trước Jonathan. Các mặt kính của các cửa số bé bẩn đến nỗi ánh sáng chỉ lờ mờ lọt được vào trong phòng. một chiếc bàn học bằng gỗ nhỏ phủ dày một lớp mãu xám bị đẩy vào sát tường. chiếc ghế đổ bị bỏ quên trong góc phòng bên cạnh cây mắc áo xiêu vẹo. Ở góc đối diện, một chiếc rương lớn có ngăn kéo trông cũng không có vẻ gì khá hơn.
- Tôi cũng chẳng hiểu vì sao người ta gọi chỗ này là phòng giáo viên, bà ta là người duy nhất từng giảng ở đây. O'Mally nói
Ông tiến lại gần dãy giá sách đứng che kín một bức tường và lục tìm trong chồng báo cũ đã ngả vàng.
- Đây này, chính mụ già ấy đây! Ông bảo vệ nói thêm và chỉ chi Jonathan xem bức ảnh trên trang nhất một tờ báo.
Người đàn bà đứng giữa bốn sinh viên trẻ, trông chưa quá 30 tuổi.
- Vì sao ông lại gọi bà ta là mụ già? Jonathan vừa hỏi vừa nhìn bức ảnh.
- Vì hồi ấy tôi mới tròn 20 tuổi. O'Mally vừa làu bàu vừa lấy chân di di lớp bụi.

Jonathan bước lại gần cửa sổ để nhìn cho rõ tấm ảnh ố vàng. Khuôn mặt của người phụ nữ không gợi lên điều gì với Jonathan nhưng bàn tay bà ta lại thu hút sự chú ý của anh, trên ngón tay áp út của bà ta đeo một chiếc nhẫn kim cương rất lớn.
- Đây có phải là Jonas không? Jonathan chỉ tay vào chàng trai đứng sát mép ảnh bên phải.
- Sao ông biết được? O'Mally ngạc nhiên hỏi lại.
- Tôi cũng không biết nữa.

Anh gấp tờ báo lại và nhét vào túi áo. Trên tấm ảnh, chàng trai với hai tay chắp sau lưng đang nheo nheo có thể chỉ đơn giản là vì ánh đèn.
- Thế những lúc không gọi bà ta là mụ già, thì ông gọi bà ấy như thế nào?
- Chưa bao giờ chúng tôi gọi bà ta bằng tên khác cả.
- Khi bà ấy nói chuyện với ông, chắc ông không thể trả lời bằng cách gọi bà ấy bằng mụ già được chứ? Jonathan cố nài.
- Chẳng bao giờ bà ta nói chuyện với chúng tôi, mà chúng tôi chẳng có chuyện gì để nói với bà ta cả.
- Vì sao ông căm ghét bà ấy đến vậy, ông O'Mally?
Người bảo vệ già quay lại nhìn Jonathan.
- Tại sao ông lại đến đây, ông Gardner? Tất cả những chuyện này đều là chuyện xưa cũ và chẳng có gì hay ho khi khuấy động quá khứ lên cả. tôi còn nhiều việc cần làm, chúng ta nên ra khỏi đây thôi.
Jonathan tóm lấy cánh tay O'Mally
- Chính vì ông đã nói đến quá khứ. Tôi bị giam lỏng trong một thời đại mà chính bản thân tôi không hề được biết, và tôi còn rất ít thời gian để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra. Một người bạn của tôi từng nói, chỉ cần một manh mối nhỏ xíu cũng có thể lần ra được cả tiến trình sự việc. tôi đang tìm một mẩu ghép nhỏ xíu có thể cho phép tôi tái hiện cả bức tranh. Tôi cần ông giúp tôi, ông O' Mally ạ.
Người bảo vệ nhìn Jonathan chằm chằm, rồi hít một hơi thật sâu.
- Họ đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm tại đây. Chính vì lý do đó mà tòa nhà này phải đóng cửa, để tránh mọi chuyện trở nên ầm ĩ sau sự mất tích của Jonas.
- Thí nghiệm như thế nào?
- Các sinh viên đã được chọn vì họ từng có những cơn ác mộng. tôi biết điều đó có vẻ vô lý, song điều đó là thật.
- Ác mộng kiểu gì, ông O'Mally?
Người đàn ông nhíu mày. Dường như việc trả lời câu hỏi đó là một gánh nặng khủng khiếp đối với ông ta.
- Cảm giác đang sống lại những sự kiện xảy ra trong một thời đại khác đúng không? Có đúng như vậy không?
O'Mally gật đầu tỏ vẻ xác nhận.
- Bà ta thôi miên họ, bà ta nói rằng làm như thế mới có thể đạt tới nơi sâu thẳm nhất của ý thức, một trạng thái tuyệt vời cho phép chúng ta bước chân vào vùng ký ức tiền kiếp.
- Hồi đó, ông không hề làm việc trong đội bảo vệ, ông là một trong những sinh viên của bà ta, phải không?
- Hồi đó, ông không hề làm việc trong đội bảo vệ, ông là một trong những sinh viên của bà ta, phải không?
- Phải, chính là tôi từng là một trong những sinh viên của bà ta, và kể từ khi phòng thí nghiệm đóng cửa, cả đời tôi chẳng học thêm được gì nữa.
- Chuyện gì đã xảy ra, ông O'Mally?
- Sang năm thứ 2, bà ta cho tiêm vào người chúng tôi các loại dung dịch, để có thể kích thích các sự kiện. sau khi bị tiêm mũi thứ 3. cả Coralie và tôi đều nhớ ra mọi chuyện. Ông có sẵn sàng nghe một câu chuyện rất khủng khiếp không, ông Gardner? Năm 1807, vợ chồng tôi từng sống ở Chicago, tôi là một nhà buôn thùng thành đạt, cho tới khi Coralie giết chết con gái của chúng tôi. Con bé chỉ mới một tuổi khi cô ấy quấn nó chết bằng tã lót. Tôi rất yêu vợ nhưng cô ấy mắc một căn bệnh khiến cho các tế bào não bị phá hủy dần. Các triệu chứng đầu tiên chỉ là những cơn cáu giận thoáng qua, nhưng rồi sau năm năm, những ai bị mắc bệnh đó đều phát điên mà không cách nào chữa được.Coralie bị kết án treo cổ. Ông không hiểu người ta phải chịu đau đớn tới mức nào khi đao phủ không chịu ban ân cho tội nhân bằng cách siết chặt nút dây làm gãy các đốt sống cổ. Tôi đã phải nhìn Coralie bị treo lủng lẳng ở đầu dây, những giọt nước mắt của cô ấy như van xin tôi tìm cách giúp cô ấy rút ngắn nỗi đau đớn. Tôi những muốn tự tay giết chết tất cả những kẻ hiếu kỳ đứng xem cô ấy bị hành hình, vậy mà tôi lại đứng bất lực giữa đám đông. Rồi cô ấy đã lặp lại chuyện đó năm 1843, tôi đã không nhận ra cô ấy và cả cô ấy cũng vậy, nếu không thì chắc chúng tôi đã chẳng yêu nhau mãnh liệt đến thế. một tình yêu mãnh liệt như vậy không còn tồn tại trong thời đại chúng ta, ông Gardner ạ. Rồi mọi chuyện lại tái diễn năm 1902, và chính mụ già đã nói với tôi rằng câu chuyện sẽ còn tiếp diễn như vậy trong những lần sau. Cho dù vợ tôi có mang cái tên khác hay khuôn mặt khác, cô ấy vẫn mãi là linh hồn ấy, cùng với căn bệnh sẽ mãi mãi quay lại ám ảnh chúng tôi. Cách duy nhất để nỗi đau của chúng tôi chấm dứt hoàn toàn là một trong hai người phải chối bỏ tình yêu khi còn đang sống. chỉ cần một trong hai chúng tôi bộc lộ tình cảm với người kia, là chúng tôi sẽ sống lại kiếp trước và mọi chuyện sẽ lại tái diễn, cùng với tất cả những nỗi đau.
- Và ông đã tin bà ta ư?
- Nếu như ông trải qua những cơn ác mộng như chúng tôi gặp phải trong lúc hoàn toàn tỉnh táo, ông Gardner ạ, thì chính bản thân ông cũng tin thôi.

Khi phòng thí nghiệm bị đóng cửa, vị hôn thê của ông O'Mally lên cơn điên lần thứ ba mà không thể nào kiểm soát nổi. cô đã tự tử vào năm 23 tuổi. chàng trai O'Mally đã bỏ sang Canada sinh sống.20 năm sau, ông trở về và nộp đơn vào Yale xin làm công việc duy tu. Ông đã thay đổi tới mức chẳng còn ai nhận ra được nữa.
- Và cũng không ai biết chuyện gì đã xảy ra với Jonas ư? Jonathan hỏi.
- Mụ già đã giết cậu ta.
- Sao ông tin chắc như vậy?
- Cậu ta cũng từng mơ thấy điều gì đó. Buổi sáng hôm mất tích, cậu ấy đã tuyên bố sẽ rời khỏi trường. Jonas vội vã chuẩn bị đi London.
- Vậy mà ông lại không nói gì với cảnh sát?
- Nếu như tôi kể cho họ nghe tất cả những gì tôi vừa kể với ông, thì ông nghĩ họ sẽ tin tôi hay tống tôi vào nhà thương điên?
O'Mally tiễn Jonathan ra tới tận chỗ anh để xe trong bãi để xe của trường. khi Jonathan hỏi vì sao ông lại quay trở lại đây, O'Mally nhún vai.
- Đây là nơi tôi cảm thấy được ở gần cô ấy nhất. nơi chốn cũng có ký ức cả đấy ông Gardner ạ.

Khi Jonathan bắt đầu khởi động máy, O'Mally cúi người xuống cửa xe và nói. - Tên mụ già là Alice Walton!
 
Chương 10Peter hoàn toàn bị chinh phục bởi kỹ thuật của Radskin. Tía sáng phản chiếu trên nhánh chính của cây dýõng trýớc khi xuyên qua khung cửa sổ nhỏ nằm bên phải khung hình đã đạt được hiệu quả đáng kinh ngạc. màu sáng bạc phủ trên sàn nhà dýới chân thiếu nữ áo đỏ trông giống hệt như màu ánh trăng tối hôm đó chiếu vào căn phòng làm việc nhỏ. Rất nhiều lần, Peter thích thú tắt đèn đi để có thể chiêm ngýỡng sự lột tả chân thật tới mức làm rung động lòng ngýời. anh tới sát cửa sổ, nhìn cây cổ thụ, rồi lại ngắm bức tranh.

- Căn phòng của Vladimir nằm ở đâu? Anh hỏi Clara.

- Ngay bên dýới, anh ðã để hành lý ở đó, tối nay anh sẽ ngủ trong gi.ường của ông ấy.

Đêm đã khuya, Clara chào tạm biệt vị khách. Peter muốn nán lại đôi chút bên bức tranh. Cô hỏi anh có cần thêm gì không và anh trấn an cô,anh đã có phép chống lại múi giờ chênh lệch, đó là những viên thuốc nhỏ giúp thần kinh thý giãn.

- Cám õn anh, Peter! Clara nói khi ra tới ngýỡng cửa phòng sách.

- Cám õn vì chuyện gì?

- Vì đã đến đây.

Khi Peter quay lại thì Clara đã biến mất.



* * *

Nằm dài trên giýờng, Peter không nén nổi bực tức với Jenkins. Cái ðồ ngốc ấy ðã nhầm kháng sinh với thuốc ngủ. chẳng còn dám tin vào ai được nữa! nếu như lúc này đã là 11 giờ đêm ở Anh, thì ở Boston mặt trời vẫn chýa lặn. Không thể dỗ mình vào giấc ngủ, Peter đành ngồi dậy, lấy tập hồ sõ trong va li và mang lên giýờng. cảm thấy trong phòng quá nóng, anh đứng ngay dậy, ra mở cửa sổ. anh hít một hơi bầu không khí mát rýợi và say sýa nhìn tấm áo bạc mà vầng trăng sắp tròn phủ lên cây dýõng. Chợt cảm thấy ðôi chút ngờ vực, anh khoác áo choàng và quay lại phòng làm việc. Quan sát kỹ bức tranh, đoạn anh quay trở về bên cửa sổ trong phòng ngủ. Nhánh chính của cây dýõng bắc ngang trên ðầu anh, cùng tầm với mái nhà. Vì cây cối bao giờ cũng mọc výõn ngọn lên trời, Peter cho rằng Vladimir đã phải vẽ bức tranh của ông từ một căn phòng nằm trên tầng xép. Anh tự nhủ phải nói điều này với Clara ngay sáng hôm sau. Sự nóng lòng càng làm cõn khó ngủ kéo dài, vì thế ngay khi vừa nghe tiếng býớc chân cô chủ nhà vang lên ngoài cầu thang, anh vội hé cửa gọi cô

- Tôi ði lấy nýớc, anh có muốn uống không? Clara từ cầu thang hỏi vọng lên.

- Tôi chẳng bao giờ uống nýớc cả. nó làm tôi bị gỉ sét! Peter vừa trả lời vừa býớc ra hành lang.

Anh ði theo Clara và mời cô cùng vào phòng làm việc.

- Tôi đã thuộc lòng bức tranh đó rồi. Cô nói.

- Tôi không hề nghi ngờ điều đó, nhưng cô cứ theo tôi. Peter nhấn mạnh

Sau khi đi nhanh qua gian bếp, Peter dẫn Clara đến tận bên cửa sổ phòng anh.

- Đây này, cô hãy tự mình nhìn đi! Tôi cam đoan với cô là Vladimir đã vẽ từ tầng trên.

- Không thể nào, đến gần cuối đời, Vladimir đã rất yếu, và ông phải thu hết sức lực mới có thể đứng trước giá vẽ. leo thang gác để lên được tận tầng trên là một việc khá mạo hiểm ngay cả đối với người dũng cảm. không một người nào trong tình trạng sức khỏe nhý ông ấy lại tìm cách lên đó làm gì. - Có mạo hiểm hay không chýa kể, nhýng tôi dám chắc với cô, ðây không phải là cửa sổ tôi thấy trong bức tranh, trông ở ðây nó to hõn rất nhiều, khung cảnh trông cũng không giống và nhánh chính của cây nằm ngang tầm với mái nhà chứ không phải ngang với cửa sổ phòng tôi!

Clara nhắc Peter rằng sau một thế kỷ rýỡi, cây dýõng ðã mọc cao lên nhiều và trí týởng týợng cũng là một trong những biệt tài của nhà danh họa. nói xong những lời này, cô ði về phía phòng mình.

Peter quay vào giýờng trong cảm giác bực bội. ðến nửa ðêm, anh lại bật ðèn lên, ði ra cửa sổ. nếu Vladimir ðã có thể tái hiện một cách tuyệt vời nhý vậy hiệu ứng của ánh sáng đêm trăng lên cành cây nhý anh nhìn thấy từ cửa sổ phòng mình, thì vì lý do gì ông ta lại phải di chuyển vị trí thân cây?

Anh để dành cả đêm dài mất ngủ để tìm câu trả lời. đến tận khi trời sáng, Peter vẫn còn ngồi trên giýờng ðọc lại tập hồ sõ của buổi ðấu giá danh tiếng mà anh vẫn chýa mất hết hy vọng được điều hành sau hai tuần nữa. Dorothy đến lúc 6h30’ sáng và Peter chuồn ngay xuống bếp dùng một tách cà phê.

Ở đây lạnh như cắt thịt. Peter vừa nói vừa xoa hai tay vào nhau cạnh lò sýởi bếp.

- Tòa nhà này cổ lắm rồi. Dorothy trả lời và đưa cho anh bộ đồ ăn để dọn bữa sáng bày trên chiếc bàn gỗ lớn.

- Bà làm việc ở đây đã lâu chýa, Dorothy?

- Khi tôi bắt ðầu phục vụ bà chủ, tôi mới 16 tuổi.

- Bà chủ nào? Peter vừa nói vừa ðổ ðầy sữa vào bát.

- Bà ngoại của cô chủ.

- Bà ngoại của cô ấy ðã từng sống ở đây ư?

- Không, bà chủ không bao giờ đến đây. Tôi ở nơi này một mình.

- Thế bà không sợ các bóng ma sao? Peter trêu bà.

- Cũng giống nhý con ngýời, thýa ông, họ cũng có thể là bạn ðồng hành tốt hoặc xấu theo cách của họ.

Peter vừa lắc ðầu vừa phết bõ lên bánh mì.

- Tòa nhà có thay đổi nhiều so với hồi đó không?

- Hồi ấy chúng tôi chýa có ðiện thoại, và ðó gần nhý là thay ðổi duy nhất. cô chủ cũng ðã trang trí lại một vài căn phòng.

Dorothy xin lỗi anh. Bà còn bận nhiều việc và để Peter ở lại ăn nốt bữa sáng. Anh lật nhanh một tờ báo, để bát cũ vào bồn rửa, và quyết định đi lên phòng mình lấy tập hồ sõ. Không khí bên ngoài hứa hẹn một ngày ðẹp trời, anh sẽ làm việc ngoài trời trong lúc chờ Clara xuống. trên đường đi lên phòng, Peter dừng lại giữa cầu thang trýớc một bức vẽ ðýợc ðóng khung mô tả trang viên. Bức tranh ðýợc vẽ nãm 1879. Anh cúi ngýờixem thật kỹ bức họa. bãn khoãn, anh xuống thanh, ra ngoài và bãng qua sân. Anh dừng lại dýới gốc cây dýõng, ðoạn chãm chú nhìn lên phía mái nhà. rồi Peter quay vào trong, lên cầu thang, tháo bức tranh ra, ôm dýới cánh tay và ði xuống dýới.

- Clara, Clara, cô xuống đây mà xem.

Peter đứng từ giữa sân hét toáng lên. Dorothy tức giận býớc trong bếp ra.

- Cô chủ ðang nghỉ ngõi, thýa ông, ðừng làm nhý vậy, tôi xin ông!

- Đi ðánh thức cô ấy dậy ngay! Nói với cô ấy là có việc rất quan trọng!

- Tôi có thể biết ông ðã tìm thấy điều gì quan trọng ở giữa sân đến nỗi ông muốn tôi phải đánh thức cô chủ dậy, trong khi cô ấy đang rất cần sự nghỉ ngơi sau nhiều đêm khủng khiếp mà cô ấy đã phải trải qua vì lỗi của ngýời bạn ông.

- Bà có thể nói một mạch tất cả những điều vừa rồi mà không cần lấy hõi sao, Dorothy? Bà khiến tôi phải ngýỡng mộ ðấy. Thôi, bà ði nhanh ði, không có chính tôi sẽ vào phòng đánh thức cô ấy dậy đấy.

Dorothy vừa bỏ đi vừa giơ hai tay lên trời, miệng lẩm bẩm rằng những ngýời Mỹ quả chẳng có chút phong thái nào! Clara khoác trên mình một chiếc áo choàng đi ra chỗ Peter, lúc này đang sốt ruột đi đi lại lại quanh gốc cây. Cô đưa mắt nhìn bức tranh đã được Peter dựng bên gốc cây.

- Nếu tôi nhớ không nhầm thì hôm qua bức tranh này không được treo ở đây , đúng không? Cô vừa chào Peter vừa nói.

Peter ngồi xuống và chuyển bức tranh cho Clara

- Cô nhìn xem!

- Đây là tòa dinh thự mà, Peter!

- Cô đếm được bao nhiêu cửa sổ con trên mái? Anh nôn nóng hỏi.

- 6, Clara trả lời.

Anh nắm lấy vai cô và xoay ngýời cô nửa vòng.

- Còn bây giờ cô đếm thử xem có bao nhiêu?

- 5, Clara thì thầm.

Peter tóm lấy cánh tay cô và kéo cô trở vào nhà. Họ leo bốn býớc một lên cầu thang và Dorothy, rất không hài lòng về cách trang phục của cô chủ trýớc mặt Peter, ra khỏi bếp rồi ði theo họ lên tận tầng xép.

* * *
 
Jonathan viết vội vài dòng. Anh báo với Anna mình sẽ ở cả ngày trong viện bảo tàng và sẽ ăn tối với ông quản đốc ở đó, sẽ trở về nhà vào khoảng 10 giờ tối. Jonathan rất ghét phải thông báo thời gian biểu của mình. Anh xé tờ giấy ra khỏi cuốn sổ và gắn lên cửa tủ lạnh bằng viên nam châm hình con cánh cam. Rồi anh býớc ra ðýờng, ði dọc vỉa hè bên phải. anh ngồi vào sau tay lái chiếc xe của mình và kiên nhẫn chờ đợi.

Một giờ sau, Anna đi xe khỏi nhà, cô rẽ về phía bên trái. Khởi động xe, cô đi về hướng bắc, qua cầu Harvard, tiếp tục lái thẳng tới Cambridge. Jonathan đậu xe ở lối rẽ vào phố Garden và dõi theo cô cho tới khi Anna býớc lên ba bậc thềm của một tòa nhà sang trọng. Ngay sau khi cô biến vào trong tòa nhà, anh ra khỏi xe và đi bộ tới tận cửa kính ra vào. Trong sảnh, tấm bảng điện tử phía rên cửa thang máy cho thấy thang đã dừng lại ở tầng thứ 13. Anh quay trở lại trong xe. Hai giờ đồng hồ sau Anna lại xuất hiện. Jonathan nằm nép mình xuống ghế khi chiếc Saab chạy ngang qua chỗ anh về phía đầu phố. Ngay khi Anna vừa qua khỏi ngã tý, Jonathan ra khỏi xe và býớc cả quyết về phía căn nhà số 27 phố Garden, dừng lại lýỡng lự trýớc nút chuông cãn hộ 13A và 13B rồi quyết ðịnh nhấn cả 2. tiếng chuông mở cửa vang lên ngay lập tức.

Cánh cửa cuối hành lang vẫn còn hé mở. Jonathan đẩy nhẹ cửa, và một giọng nói mà anh nhận ra ngay tức khắc vang lên:

- Con quên thứ gì phải không, con gái yêu?

Khi nhìn thấy anh đứng ở cửa, người đàn bà có mái tóc bạch kim khẽ giật mình song lập tức trấn tĩnh.

- Bà Walton phải không? Jonathan lạnh lùng hỏi.



* * *

Hai tay chống lên hông, Dorothy dứng thẳng đơ người như cái cây mọc chính giữa gian phòng lớn trên gác xép, sẵn sàng đối mặt với Clara.

- Dorothy hãy thề danh dự rằng bà tôi chýa bao giờ cho thay ðổi bất cứ thứ gì trên mái của tòa nhà này!

Peter chăm chú nhìn bà. Giõ cao chiếc búa tạ mang từ dýới nhà kho lên, anh nện thật mạnh vào bức týờng cuối phòng. Cả căn phòng rung lên.

- Tôi sẽ không thề. Bà giận dữ trả lời.

- Thế tại sao không bao giờ bà nói với tôi về chuyện này? Clara hỏi.

Peter nện thêm cú nữa và trên vách týờng xuất hiện vết nứt ðầu tiên.

- Chúng ta chýa bao giờ có dịp bàn tới chủ ðề này!

- Thôi ði nào, Dorothy! Kiến trúc sý của gia ðình ta, ông Goesfield, đã tỏ ra ngạc nhiên khi tòa thị chính từ chối đơn xin cải tạo tầng xép, và còn nhắc đi nhắ lại rằng ông ấy tin chắc căn phòng này đã từng bị sửa chữa.

Dorothy giật nảy ngýời khi Peter giáng thêm một cú nữa lên týờng.

- Bà ðã cam đoan trước mặt tôi rằng tòa lâu đài vẫn hoàn toàn nguyên vẹn nhý trýớc kia! Tôi vẫn còn nhớ nhý in. Hõn nữa, bà lại tỏ ra rất khó chịu với ông Goesfield.

Cãn phòng lại rung lên lần nữa, một làn bụi mù mịt rõi từ trên mái xuống. Clara ngýớc ðầu lên rồi kéo Dorothy lại gần cửa sổ.

- Bà chủ bắt tôi phải hứa! Chính bà chủ ðã cho ngýời sửa lại trang viên.

- Vì sao? Peter hỏi vọng từ cuối phòng.

Anh lấy chân đẩy những mảnh tường vỡ trên sàn. Hai vai anh đau nhừ. Anh hít một hơi và tiếp tục đập.

Tôi không biết, Dorothy làu bàu với Clara, bà của cô là ngýời ðã quyết định mọi việc nhưng bà là một ngýời ðúng ðắn. bà chủ nói cô sẽ trở thành một nhà sinh học tài nãng nhýng cô chỉ làm theo ý mình…

- Bà tôi muốn tôi trở thành nhà hóa học! Và bà cũng muốn tôi phải bán trang viên này đi, Dorothy có nhớ không? Clara cắt ngang.

- Phải, Dorothy lúng túng, quả là bà đã rất gắn bó với nõi này.

Các lớp gạch bắt ðầu long ra. Peter dung lýỡi búa cạy các khe vữa. bức týờng bắt ðầu cong xuống sau cú ðập tiếp theo.

- Tại sao bà lại muốn làm cho cái cửa sổ này biến khỏi tầng xép, Dorothy?

Dorothy nhìn chằm chằm Clara, lýỡng lự không muốn trả lời. Trýớc ánh mắt khẩn nài của cô, bà ðành nhýợng bộ.

- Vì điều bất hạnh đã đến với con gái bà chủ khi cô ấy muốn đục bức tường này ra. Hãy bảo ông ấy dừng tay, tôi xin cô!

- Bà biết chuyện gì đã xảy ra với mẹ tôi ý? Clara run rẩy hỏi.

Peter ðã gỡ ra viên gạch đầu tiên, anh thò tay qua lỗ hổng và khua cánh tay. khoảng trống phía sau bức týờng có vẻ khá sâu. Anh lại cầm búa lên và dồn sức gấp ðôi.

- Bà của cô ðã tìm được tôi trong làng khi bà mới mua lại tòa nhà. Những cõn ác mộng của con gái bà chủ bắt ðầu ngay từ kỳ nghỉ ðầu tiên khi hai mẹ con bà tới ðây.

Peter lại làm bung một lớp gạch nữa, khoảng trống bây giờ ðã đủ lớn để anh có thể ngó vào trong. Phía bên kia bức týờng tất cả tối nhý ðêm ðen.

- Những cõn ác mộng kiểu gì? Clara hỏi.

- Cô thýờng hét lên những ðiều khủng khiếp trong giấc ngủ.

- Bà còn nhớ mẹ tôi thýờng nói gì không?

- Tôi vẫn mong sao có thể quên đi được! thật không thể hiểu nổi, cô ấy vẫn thường nhắc đi nhắc lại: “ anh ấy sẽ đến”. các loại thuốc do bác sĩ kê hoàn toàn không có tác dụng gì khiến cô giảm cõn và bà chủ hoàn toàn tuyệt vọng khi thấy con gái mình trong tình trạng nhý vậy. Những khi cô ấy không cả ngày lục lọi từng ngóc ngách trong tòa lâu đài, thì lại ngồi dýới bóng cây dýõng. Tôi thýờng ôm cô ấy trong vòng tay, vỗ về và cô tâm sự với tôi rằng trong giấc mõ cô vẫn thýờng nói chuyện với một chàng trai mà cô ðã biết từ rất lâu. Tôi chẳng hiểu gì cả, cô ấy nói tên chàng trai là Jonas, rằng họ đã yêu nhau từ trýớc ðó. Rồi anh ta sẽ nhanh chóng tới tìm cô, anh ấy đã biết làm thế nào để tìm được cô. Rồi đến một tuần khủng khiếp khi nỗi buồn cướp mất cô.

- Nỗi buồn nào?

- Cô chủ không nghe thấy anh ta nữa, cô nói anh ta đã chết, ngýời ta ðã giết anh ấy. Cô không muốn ăn uống nữa, sức lực nhanh chóng rời bỏ cô ấy. chúng tôi rắc tro của cô quanh gốc cây cổ thụ. Bà chủ đã cho ngýời xây týờng bịt lại và lấp kín cửa sổ trên mái. Tôi xin cô, hãy bảo ông Gwel dừng lại trýớc khi mọi chuyện trở nên quá muộn.

Peter ðã nện đến nhát thứ 20, và hai cánh tay anh đau nhức nhối. cuối cùng thì anh cũng chui ngýời lọt qua lỗ hổng và sang ðýợc phía bên kia týờng.

- Có phải ông ấy là bố tôi không? Cái ngýời tên Jonas ấy.

- Ồ không! Thýa cô chủ. cầu chúa ban phýớc lành cho cô. Bà của cô ðã nhận nuôi cô sau đó một thời gian dài.

Clara tựa lýng vào khung cửa sổ. cô nhìn xuống dýới sân và nín thở. Nỗi buồn dâng lên ngập mắt không cho phép cô quay lại ðối diện với Dorothy.

- Bà nói dối! tôi không phải là con nuôi. Clara vừa nói vừa cố kìm tiếng khóc.

- Bà cô là ngýời rất tốt! bà ðã đi thăm nhiều trại trẻ mồ côi trong vùng. Bà yêu quý cô ngay từ khi nhìn thấy cô lần đầu tiên, bà nói bà nhý nhìn thấy con gái mình trong đôi mắt của cô, rằng con gái bà đã tái sinh thành cô. Đó chỉ là những câu chuyện do bà chủ nghĩ ra để tự xoa dịu nỗi đau của mình, bà chủ đã hoàn toàn thay đổi kể từ sau cái chết của con gái. Bà cấm cô không được đến gần trang viên. Chính bà cũng không bao giờ quay lại đây nữa. mỗi khi bà chủ từ London tới đây để trả tiền lương cho tôi cũng như đưa các khoản chi dung cho việc chăm sóc nơi này, tôi thýờng phải chờ bà phía sau cánh cổng sắt. mỗi lần gặp bà tôi ðều khóc.

Peter ho sặc sụa vì bụi. anh đứng im cho đôi mắt quen dần với bóng tối.

- Thế con gái của bà tôi tên là gì?

Đôi mắt của Dorothy Blaxton bắt đầu đẫm nước. bà ôm cô gái trẻ vô cùng yêu quý trong vòng tay và nói thầm vào tai cô bằng giọng run rẩy:

- Giống nhý cô, thýa cô chủ, cô ấy tên là Clara.

- Cô phải vào ðây ðể xem tôi tìm thấy điều gì! Peter hét lên từ phía bên kia bức týờng.



* * *

Jonathan býớc vào phòng khách của căn hộ quý tộc.

Anh làm gì ở đây? Bà Walton lạnh lùng hỏi.

- Tôi vừa từ Yale về và hôm nay tôi sẽ là ngýời ðặt câu hỏi, Jonathan trả lời khô khốc. Anna làm gì ở nhà bà vậy, bà Walton?

Ngýời ðàn bà có mái tóc trắng chãm chú nhìn anh. ạnh cảm thấy có chút gì thýõng hại trong mắt bà ta.

- Anh ðã bỏ sót quá nhiều thứ, Jonathan tội nghiệp ạ.

- Bà tự cho mình là ai kia chứ, Jonathan nổi nóng.

- Là mẹ vợ của anh! Điều sẽ trở thành hiện thực trong vài ngày nữa.

Jonathan nhìn bà ta hồi lâu, cố tìm xem có bao nhiêu phần sự thật trong câu nói ấy.

- Bố mẹ của Anna đều đã qua đời!

- Điều này nằm trong kế hoạch mà chúng tôi muốn anh phải tin.

- Kế hoạch nào?

- Bố trí cho anh gặp con gái tôi, kể từ buổi triển lãm đầu tiên của nó, mà tôi đã phải tốn rất nhiều tiền để tổ chức, cho đến đám cưới của anh với nó. Tất cả đều đã được tính trước, kể cả tình cảm thống thiết không thể tránh khỏi với Clara, có phải tên mới của cô ta vẫn là thế không?

- Chính bà là ngýời ðã theo dõi chúng tôi ở Châu Âu?

- Tôi và một vài ngýời bạn. Nhýng ðiều ðó thì có quan trọng gì khi kết cục vẫn là nhý thế? Các mối quan hệ của tôi cúng ðã giúp ích cho anh nhiều khi ở Louvre, đúng không?

- Nhưng thật ra bà muốn gì? Jonathan hét to.

- Trả thù, trả lại công bằng cho con gái tôi! Alice Walton gào lên.

Bà châm một điếu thuốc. Và mặc dù đã cố tỏ ra bình tĩnh, bàn tay điểm chiếc nhẫn kim cương của bà ta vẫn liên tục chà xát lên lớp vải bọc ghế bành đang ngồi.

- Giờ thì các viên xúc xắc đã được tung ra và số phận các ngýời ðã được định đoạt, hãy để tôi kể nốt cho anh nghe câu chuyện buồn về ngài Edward Langton, ngýời ðã từng là chồng của tôi.

- Chồng của bà ý? Nhýng Langton ðã qua đời từ cách đây hơn một thế kỷ rồi.

Những cơn ác mộng không thể kể cho anh nghe hết mọi chuyện. ngài Edward có hai cô con gái. Ông ấy là một ngýời hào phóng, quá hào phóng. Ngoài việc dốc hết tài nãng và gia tài của một nhà buôn tranh cho lão họa sĩ Radskin, ông ấy còn có một tình yêu vô bờ bến đối với đứa con gái lớn. ông ấy không tiếc bất cứ thứ gì cho nó, và anh không thể týởng týợng nổi ðứa thứ hai ðã phải khổ sở nhý thế nào khi không có ðýợc tình cảm của ngýời cha! Song ðàn ông bao giờ cũng chỉ hành ðộng theo ý muốn của mình, chẳng bao giờ suy nghĩ về những hậu quả có thể xảy ra. Vì sao các ngýời lại có thể ðối xử nhý vậy với chúng tôi?

- Đối xử với bà nhý thế nào? Tôi chẳng hiểu bà ðang nói gì.

- Con gái lớn của ông ấy, đứa con mà Edward yêu quý nhất, đã đem lòng yêu một chàng trai trẻ tài giỏi, một chuyên gia trong ngành hội họa. Họ không thể rời nhau, tình yêu là tất cả đối với họ. Edward đã không thể chịu đựng được khi thấy con gái xa rời ông ấy, ông ấy đã ghen tị, nhý tất cả các ông bố ðều có lúc nhý vậy, mỗi khi con cái bắt ðầu muốn bay bằng ðôi cánh của mình. Còn tôi thì chỉ mõ ðến ngày hai ðứa chúng nó ra đi. Tôi đã hy vọng cuối cùng thì Edward cũng sẽ dành nhiều quan tâm hõn cho Anna. Sau cái chết của Vladimir, chúng tôi không còn nhiều khả năng thanh toán các khỏan nợ. chỉ có việc bán bức tranh cuối cùng của ông ta mới cứu chúng tôi khỏi phá sản. chúng tôi trông đợi một số tiền khá lớn và mong tất cả những bức tranh chýa bán ðýợc mà chồng tôi ðã chất trong nhà, sau nhiều năm cũng sẽ trở nên giá trị. Nhý thế mới công bằng, Edward đã chứa chấp và cung phụng Vladimir một cách vô lý trong quá nhiều năm và điều đó đã làm tiêu tan cả sản nghiệp của chúng tôi!

* * *
 
Đến lượt Clara chui qua lỗ hổng mà Peter đã khoét rộng. đằng sau bức tường tất cả đều toát lên vẻ bần hàn. Đồ đạc tuềnh toàng bao gồm một chiếc bàn gỗ nhỏ, chiếc ghế mộc, một cái giýờng nhỏ trông nhý chiếc chõng tồi tàn thời chiến tranh. Chiếc bình gốm cũ đặt trên một trong ba cái giá. Cuối phòng, một tia sáng trên trên trần chiếu xuyên xuống sàn tới tận chỗ để giá tranh. Peter xông vào góc tối. anh ngẩng lên và phát hiện những mảnh ván được đóng sát trần nhà. anh kiễng chân kéo từng mảnh một ra. một luồng xám nhạt bốc lan ra chỗ giá tranh. Peter đẩy tấm cửa vừa lộ ra rồi dung hết sức của đôi tay để kéo nó lên.

Mái tóc phủ trắng bụi của anh nhô ra khỏi mái nhà nghiêng nghiêng. Anh nhìn khu výờn trải rộng xung quanh và khi nhìn thấy nhánh chính của cây dýõng ðang ðung ðýa nhè nhẹ trên máng nýớc phía dýới, anh mỉm cýời, quay vào trong.

- Clara, tôi nghĩ chúng ta vừa tìm được phòng ở thực sự của Vladimir Radskin. Chính tại nõi này ông ấy ðã vẽ bức tranh Thiếu nữ áo đỏ.

* * *

Alice Walton xoay xoay chiếc nhẫn quanh ngón tay. Mẩu thuốc của bà ta vẫn còn nhả khói trong gạt tàn, bà nóng nảy dụi tắt nó rồi lại ngay lập tức châm một điếu khác. Ngọn lửa từ que diêm buồn bã rọi lên khuôn mặt bà ta. Sự đau khổ và giận dữ hằn sâu trên từng nếp nhăn trên mặt bà.

- Thật không may, vào đúng ngày tổ chức buổi đấu giá, tên chuyên gia xấu bụng đã gởi một bức thý tới cho ngýời ðiều hành ðấu giá, hắn ta cho rằng bức tranh là giả! Cái gã đã cáo buộc điều đó và đẩy cả gia đình tôi vào cảnh phá sản chẳng phải ai khác, chính là kẻ đồng lõa đang si mê đứa con gái lớn của chồng tôi. Đó là sự trả thù đối với chồng tôi vì đã ngăn cản đám cưới của chúng. Sau đó thì anh biết rồi, chúng tôi đã sang Mỹ. Chồng tôi qua đời chỉ vài tháng sau khi chúng tôi tới đây. Ông ấy chết vì bị mất hết danh dự.

Jonathan đứng lên và býớc lại gần ô cửa kính. Chẳng có ðiều gì đáng là sự thật trong câu chuyện trên. Song ký ức về cõn ác mộng gần ðây nhất mà cả anh và Clara cùng gặp phải vẫn còn ám ảnh anh. Quay lýng về phía Alice, anh lắc lắc đầu tỏ vẻ không tin.

- Đừng làm ra vẻ không biết gì, Jonathan! Chính anh cũng từng gặp phải những giấc mộng. tôi chýa bao giờ rời bỏ hai ngýời. nỗi cãm hận là một cảm xúc khiến cho linh hồn có ðýợc sức sống mãnh liệt. tôi đã không ngừng nuôi dýỡng nó để có thể sống lại. vào mỗi thời đại, tôi đều tìm ra được các người và tìm ra cách thay đổi số phận hai người. tôi thật sung sướng làm sao khi anh là một trong những sinh viên của tôi tại Yale. Các ngýời ðã tiến thật gần tới đích. Trong kiếp đó, anh đã mang cái tên Jonas, anh đã học tại Boston và muốn đổi tên gọi của mình theo kiểu Mỹ, song điều đó chẳng có gì quan trọng cả. Suýt nữa thì anh tìm thấy Clara, trong các giấc mõ anh thấy ðýợc nó ðang ở London, song tôi ðã vừa kịp chia rẽ các ngýời.

- Bà thật điên rồ!

Jonathan bỗng thấy vò xé bởi ýớc muốn rời khỏi cái nõi ðang khiến anh ngạt thở này. Anh tiến ra cửa. Ngýời ðàn bà tóc trắng thô bạo kéo tay anh lại.

-Tất cả các nhà phát minh lớn đều có một điểm chung là biết cách tự mình tách ra khỏi thế giới bao quanh họ, để tưởng tượng. tôi đã thành công trong việc khiến cho Coralie O’Mally phát điên, và tôi đã gần nhý làm ðýợc ðiều ðó với Clara cái ngày mà tôi ðầu ðộc chết Jonas. Tôi ðã nói với anh ngay lần đầu tiên gặp nhau tại Miami. Yêu và hận chính là cách sáng tạo ra cuộc sống, thay và chiêm ngýỡng nó. Tình cảm không phải lúc nào cũng lụi tàn, Jonathan ạ. Và tình cảm luôn khiến cho các ngýời phải tái hợp.

Jonathan nhìn bà ta khinh bỉ, anh túm cánh tay bà ta và hất nó ra khỏi tay anh.

- Bà đang tìm cách làm gì, bà Walton?

- Vắt kiệt linh hồn anh và buộc anh vĩnh viễn phải rời xa Clara. Chính vì thế mà trýớc hết tôi phải khiến cho các ngýời tìm thấy nhau. Tôi đã chạm tới đích. Nếu như lần này các ngýời không thể hýởng tình yêu bên nhau, thì đây sẽ là lần cuối cùng các ngýời ðýợc sống. linh hồn của các ngýời ðã gần hết năng lượng, chúng sẽ không thể vượt qua nổi một lần chia tay nữa.

- Đó chính là mục đích của bà ý? Jonathan vừa nói vừa ðứng dậy. Bà muốn trả thù vì một điều đã xảy ra cách đây hơn một thế kỷ phải không? Cứ cho là mọi chuyện sẽ tuân theo suy luận của bà, bà sẵn sang hy sinh một trong hai cô con gái của mình vì ýớc muốn ðiên rồ ðó ý? Vậy mà bà vẫn cho rằng mình không điên sao?

Jonathan býớc thẳng ra khỏi cãn hộ mà không hề ngoái lại. khi anh býớc qua ngýỡng cửa, Alice Walton gào lên sau lýng anh.

- Clara không phải con gái ta, chỉ có Anna thôi! Và cho dù anh có muốn hay không thì anh cũng sẽ phải cýới con gái ta trong một vài ngày nữa.

* * *

- Điều duy nhất mà chúng ta có thể khẳng định được, là Radskin chắc chắn đã không làm Ngài Edward phá sản vì những chi phí của ông.

Peter ho nhẹ. không khí trong phòng hõi hãng hắc, phảng phất mùi tỏi.

- Ông ấy sống trong cãn phòng này ý? Clara ngõ ngác hỏi.

- Ít nhất thì tôi cũng thấy, khó mà phủ nhận được điều đó! Peter vừa trả lời vừa thả một viên gạch mới được dỡ ra xuống sàn.

Trong vòng một giờ, anh đã tạo được một lỗ tường hổng đủ lớn để ánh sáng từ bên ngoài có thể lọt vào rọi sáng căn phòng. Peter giõ tay chỉ lên mái lâu ðài.

- Giang sõn khép kín của Vladimir trông có vẻ giống một xà lim hõn là một phòng dành cho khách.

Peter tò mò nhìn xuống sàn nhà, màu gỗ ở đây trông rất khác so với phần còn lại của gác xép.

- Đúng là sàn chỗ này chýa từng ðýợc làm lại!

- Tất nhiên rồi! Clara tiếp lời.

Peter tiếp tục xem xét cãn phòng. Anh cúi ngýời nhìn xuống gầm giýờng.

- Anh tìm gì vậy? Clara hỏi.

- Bảng màu, bút vẽ và những tuýp màu của ông ấy. Một dấu vết nào đó.

Tôi chẳng thấy gì trong căn phòng này cả, cứ nhý ai ðó ðã muốn xóa bỏ hết mọi dấu vết về cuộc sống của Radskin ở đây.

Anh trèo lên giýờng và ðýa tay qýờ lên các tầng giá treo.

- Tôi tìm thấy cái gì đó!

Anh nhảy cẫng lên và chìa cho Clara xem một cuốn sổ màu đen. Cô thổi nhẹ lên bìa sổ, một lớp bụi dày bay tung. Peter nôn nóng lấy cuốn sổ khỏi tay cô.

- Tôi sẽ mở nó ra xem!

Từ từ thôi! Clara ngăn anh lại.

- Tôi là chuyên gia đấu giá. Và chắc cô sẽ ngạc nhiên về điều này, song tôi đã khá quen với việc phải nýõng tay khi ðụng ðến những di vật cổ xýa.

Clara lấy lại cuốn sổ trong tay anh và thận trọng mở trang ðầu tiên.

- Trong ðó có gì thế? Peter năn nỉ.

- Tôi không biết, trông nó giống như một cuốn nhật kí. Nhưng hình nhý ðýợc viết bằng ngôn ngữ Kirin

- Tiếng Nga ý?

- Thì cũng thế cả thôi!

- Tôi cũng thừa biết là thế rồi. Peter làu bàu.

- Khoan đã, còn có cả một loạt ký hiệu hóa học nữa.

- Cô có chắc không? Peter hỏi bằng một giọng lộ rõ vẻ phấn khích.

- Tất nhiên! Clara hõi tự ái.

* * *
 
Ngồi sau bàn giấy, François Hebrard kết thúc ngày làm việc bằng cách đọc lại bản báo cáo mà Sylvie Leroy vừa mang tới. Từ khi Jonathan về, các chuyên viên vẫn tiếp tục nghiên cứu và khám phá bí ẩn của màu đỏ.

- Cô đã liên lạc được với Gardner chưa? Ông giám đốc phòng thí nghiệm hỏi.

- Vẫn chýa, bộ nhớ ðiện thoại của anh ta ðã hết chỗ, chẳng có cách nào để nhắn thêm vào đó được nữa, mà anh ta cũng chẳng trả lời email.

- Bao giờ thì buổi đấu giá bắt đầu? ông Hebrard hỏi.

- Ngày 21, tức là bốn hôm nữa.

- Sau tất cả những nỗ lực chúng ta đã bỏ ra, nhất định phải báo bằng được tin này cho anh ta biết. Cô muốn làm gì cũng được, miễn là tìm cho ra anh ấy cho tôi.

Sylvie Leroy býớc ra khỏi phòng và đi về phía xưởng vẽ của cô. Cô biết một người có thể tìm được Jonathan Gardner, nhưng cô không hề muốn gọi cho người ấy chút nào. Cô vớ lấy túi và tắt đèn trên bàn làm việc. trong hành lang, Sylvie gặp vài đồng nghiệp song cô bực mình tới mức chẳng buồn nghe tiếng họ chào. Cô býớc qua cổng kiểm soát và tra thẻ của mình vào máy đọc. cánh cửa lớn mở ra tức khắc. Sylvie Leroy bước lên cầu thang dẫn ra phía ngoài. Bầu trời rực rỡ, không khí bắt đầu có hương vị mùa hè. Cô băng qua sân bảo tàng, ngồi xuống một băng ghế và tận hýởng vẻ ðẹp của khung cảnh xung quanh. Kim tự tháp Pei phản chiếu những tia nắng chiều đỏ rực tới tận mái vòm của phòng trýng bày Richelieu. Cô nhìn hàng ngýời dài dằng dặc ðang chờ tới lýợt tham quan, trông nhý một dải ruy bãng kéo dài trýớc sân bảo tang. Làm việct rong một không khí mang đậm nét cổ tích như ở đây quả là giấc mõ mà cô không bao giờ muốn tỉnh dậy. cô nhún vai thở dài và bấm số di ðộng.

* * *

Dorothy đã trải khăn lên chiếc bàn nhỏ ngoài sân. Họ ăn tối sớm để sáng mai đi London. Công nhân của hãng vận chuyển Dalaye Moving sẽ có mặt ở phòng tranh ngay đầu giờ sáng để chuẩn bị mang Thiếu nữ áo đỏ đi. Peter và Clara sẽ được xếp chỗ ngồi sau chiếc xe hòm bọc thép và được hộ tống tới tận sân bay Heathrow. Năm bức tranh của Vladimir sẽ được mang đi trong tầng hầm của chiếc Boeing 747 của hang British Airways tới tận Boston. Một chiếc xe bọc thép khác chờ sẵn tại sân bay Logan. Ngày mai khi ra đến London, Peter sẽ chụp các trang viết tay trong cuốn sổ của Vladimir và gửi qua thý ðiện tử tới một ðồng nghiệp ngýời Nga nhờ anh ta dịch giúp ngay lập tức. anh rót thêm một tách cà phê cho Clara, mỗi ngýời theo ðuổi một ý nghĩ riêng và họ hầu nhý chuyện trò rất ít kể từ đầu bữa ăn.

- Hôm nay anh nói chuyện với anh ấy chưa? Clara hỏi, phá vỡ bầu không khí yên lặng.

- Lúc này là 7 giờ sáng ở Boston, có lẽ Jonathan vừa mới dậy thôi. Lát nữa tôi sẽ gọi điện cho cậu ấy. tôi hứa với cô.

Điện thoại Peter rung bần bật trên bàn.

- Cô có tin vào thần giao cách cảm không? Tôi tin chắc là cậu ta gọi đấy. Peter vui vẻ nói.

Peter, Sylvie Leroy đây. Tôi có thể nói chuyện với anh được không?

Peter xin lỗi Clara và đi ra chỗ khác. Nữ chuyên viên của C2RF bắt đầu ngay một bản báo cáo chi tiết với anh.

- Chúng tôi đã phân tích thành công một số chất cấu tạo nên các hạt màu. Thành phần chính làm từ xác rệp thýờng ðýợc tìm thấy trên cây lê. Chúng tôi hoàn toàn không nghĩ tới điều này, vì thông thýờng ðây là một loại màu nhuộm rất - Chúng tôi đã phân tích thành công một số chất cấu tạo nên các hạt màu. Thành phần chính làm từ xác rệp thýờng ðýợc tìm thấy trên cây lê. Chúng tôi hoàn toàn không nghĩ tới điều này, vì thông thýờng ðây là một loại màu nhuộm rất đẹp nhưng không bền, và chúng tôi vẫn chýa thể hiểu nổi nhà danh họa của anh ðã làm thế nào để nó không hề phai sau nhiều năm tháng như vậy. song dù sao thì những kết quả phân tích cũng vẫn khẳng định chắc chắn điều đó. Chúng tôi cho rằng bí ẩn của bức tranh nằm ở lớp sơn phủ mà Radskin đã sử dụng. Chúng tôi vẫn chýa thể tìm ra đó là chất gì, song những tính chất của nó thì có vẻ rất đáng chú ý. Nếu anh muốn biết, theo ý kiến cá nhân của tôi thì có vẻ nhý nó ðóng vai trò màng lọc, giống nhý một lớp phim trong suốt có tác dụng chhe chắn cho những lớp màu bên dýới. Chúng tôi đã phát hiện ra những mảng tối rất mờ trên tấm phim chụp bức tranh, mặc dù không phải tất cả những ngýời trong phòng thí nghiệm đều đồng tình với nhau về điểm này. Bây giờ thì anh nghe kỹ đây, chúng tôi đã có những phát hiện rất quan trọng. Radskin cũng đã sử dụng màu đỏ Adrinople, tôi sẽ không trình bày chi tiết với anh công thức của nó, anh chỉ cần biết màu đó được pha chế từ thời Trung cổ. để có được màu đỏ tươi và bền ngýời ta trộn màu với mỡ, nýớc tiểu và máu súc vật.

- Cô nghĩ rằng ông ta ðã cắt cổ một con chó ý? Peter ngắt lời. nếu cô không phản ðối, tôi sẽ tránh nói về chi tiết này trong buổi ðấu giá.

Anh nhầm rồi, Vladimir ðã không làm hại tới một con ruồi. tôi nghĩ Radskin đã pha chế màu đỏ của mình bằng những thứ mà ông ta có sẵn, và các kết quả ADN khẳng định điều đó, chúng tôi đã tìm thấy máu ngýời trong các hạt màu.

Mặc dù rất choáng váng, song trong giây lát Peter týởng rằng cuối cùng thì anh cũng đã tìm được cách để xác thực bức tranh. Nếu như nhà danh họa đã dung chính máu mình, thì chỉ cần so sánh các xét nghiệm ADN, song sự phấn khích vừa thoáng xuất hiện đã vội tan nhý bong bóng, than thể của Vladimir giờ ðã trở thành cát bụi, chằng còn bất cứ mẫu nào khả dĩ cho phép tiến hành so sánh ADN.

- Thế còn phát hiện quan trọng tiếp theo là gì? Peter lo lắng hỏi.

- Một điều rất lạ lùng, đó là sự xuất hiện của Réalga, một màu hoàn toàn không cần thiết và lẽ ra Vladimir chẳng bao giờ cần dùng tới nó.

- Vì sao? Peter ngạc nhiên hỏi.

- Vì màu đỏ đó hoàn toàn bị lu mờ bởi các sắc đỏ khác và cũng vì nó chứa rất nhiều độc tố từ sunfuric thạch tín.

Peter nghĩ tới mùi tỏi mà anh đã ngửi thấy khi thò đầu qua lỗ hổng trong tường. đó quả là mùi đặc trưng của loại chất độc này.

- Chất Réalga thuộc nhóm độc dược dung để sản xuất thuốc diệt chuột, và nếu nhý hít phải nó thì chẳng khác nào cố tình tự vẫn.

- Cô có thể gửi cho tôi bản cáo này tới văn phòng của tôi ở Boston được không?

- Tôi hứa với anh sẽ gửi ngay, với một điều kiện.

- Cô muốn gì cũng được!

- Anh đừng bao giờ gọi điện cho tôi nữa.

Rồi Sylvie Leroy đột ngột ngắt máy.

* * *

Mặt trăng bắt đầu ló lên trên đỉnh những ngọn đồi.

- Đêm nay trăng sẽ tròn. Peter vừa nói vừa ngẩng lên nhìn trời.

Nhìn thấy vẻ mặt buồn rýời rýợi của Clara, anh ðặt tay lên vai cô.

- Chúng ta sẽ tìm ra giải pháp, Clara ạ!

- Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta nên dừng lại,cô mõ màng nói. Tôi sẽ ngồi tù bao lâu cũng ðýợc, nhýng sau ðó tôi sẽ ði tìm anh ấy.

- Cô yêu cậu ấy đến thế ư?

- Tôi e là còn hõn thế nhiều. Cô nói thêm và ðứng dậy.

Clara cáo lỗi vì cảm thấy quá mệt mỏi. anh tiễn cô ra tận cửa bếp rồi quay trở lại bàn để tận hưởng bầu không khí êm dịu của buổi tối. đã gần nửa đêm, ánh đèn trong phòng Clara đã tắt và Peter trở lại phòng mình để chuẩn bị đồ đạc. Đến lýng chừng cầu thang anh quay lại và đi về phòng làm việc. Một vài giây sau, anh đi lên tầng xép, ngồi vào chiếc ghế cũ và nhẹ nhàng đặt Thiếu nữ áo đỏ lên giá vẽ của Vladimir Radskin.

- Thế là nàng đã trở về đúng chỗ của mình. Anh thì thầm với bức tranh trong bóng đêm hiu quạnh.

- Đây quả là một món quà tuyệt đẹp đối với Vladimir. Hôm nay đúng là ngày mất của ông ấy. Tiếng Clara thì thào sau lýng anh.

- Tôi không nghe thấy tiếng chân cô. Peter nói mà không quay lại.

- Tôi biết anh sẽ lên ðây.

Mặt trãng vẫn lên cao dần trên bầu trời và ánh trãng bắt ðầu rọi vào phòng qua ô cửa sổ trên mái. Bỗng nhiên tất cả mọi vật được bao phủ bởi một lớp sáng màu xanh ánh bạc. Ánh trăng chiếu thẳng vào bức tranh và thấm dần vào lớp sõn phủ trên bề mặt. chầm chậm, dýới ánh nhìn sửng sốt của Peter và Clara, một khuôn mặt từ từ hiện lên dýới mái tóc dài của Thiếu nữ áo ðỏ. Mặt trãng tròn vẫn tiếp tục lên dần trên bầu trời,trăng càng lên cao bao nhiêu, ánh trăng càng soi tỏ bấy nhiêu hình ảnh trong tranh. Đến nửa đêm, khi mặt trăng đã lên tới đỉnh, chữ kí của Vladimir dần dần hiện ra ở góc tranh. Peter nhảy ra khỏi ghế ngồi và siết chặt Clara trong vòng tay.

- Nhìn kìa! Clara nói và trỏ tay về phía bức tranh.

Khuôn mặt hiện ra rõ nét dần, thoạt tiên là đôi mắt, rồi sống mũi, má và cuối cùng là đôi môi nhỏ xinh. Peter nín thở., anh hết nhìn Clara rồi lại nhìn Thiếu nữ áo đỏ: các nét của họ giống nhau như đúc. 150 năm về trước, Vladimir Radskin đã hoàn thành tác phẩm đẹp nhất cuộc đời ông, rồi lịm dần đi trên chiếc ghế này khi đêm trở sáng. Mặt trăng bắt đầu xuống dần và khi ánh trăng bắt đầu biến mất trên lớp sõn phủ, khuôn mặt cũng nhý chữ kí của nhà danh họa cũng ngay lập tức biến mất nhý bị xóa ði khỏi bức tranh. Peter và Clara chia tay nhau sau khi ðã ở gần hết một đêm dài đối diện với bức tranh trong căn phòng của nhà danh họa. trời vừa sáng họ đã gặp nhau. Sau khi chất hết hành lý lên xe và đặt bức tranh vào trong cốp xe, Peter gọi điện cho Jonathan nhưng không được.

- Chịu thôi! Cậu ấy vẫn còn ngủ.

- Đến London chúng ta sẽ thử lại. Nếu vẫn không được thì ra đến sân bay sẽ gọi tiếp.

- Nếu cần thì tôi sẽ chui vào tận buồng lái máy bay để gọi, Peter nói thêm.

* * *

Họ đến phòng tranh lúc 9 giờ sáng. Trýớc khi mở lớp cửa sắt, Clara ðýa mắt liếc nhanh qua lớp kính lấp lánh ánh mặt trời của quán cà phê. một lát sau, các nhân viên vận chuyển ðóng nắp chiếc két bảo mật chứa Thiếu nữ áo ðỏ. Đến trưa, chiếc xe thùng bọc thép của hãng Delahaye rời khỏi phố Albermarle, theo sau là một xe cảnh sát tháp tùng. Clara ngồi ở phía trýớc, Peter ðýợc xếp một chỗ gần bức tranh ở thùng xe phía sau.

- Sóng di động không lọt được vào đây. một nhân viên vận chuyển nói với Peter khi anh định dùng điện thoại di động. Tất cả các thành xe đều bọc thép và chịu lửa.

- Đến ngã tý tới tôi có thể xuống xe vài phút ðýợc không? Tôi cần gọi cho một ngýời bạn.

- Tôi nghĩ là không ðýợc, thýa ông. Ngýời ðội trýởng mỉm cýời trả lời anh.

Xe dừng lại trên ðýờng bãng, dýới bụng chiếc Boeing 747. Peter kí nãm phiếu giao hang. Những tờ phiếu này nghiễm nhiên biến anh, kể từ giờ phút này cho tới buổi ðấu giá, trở thành ngýời giám hộ chính thức cho các tác phẩm cuối cùng của Vladimir. Kể từ giờ trỏ đi, anh sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về các bức tranh. Clara và anh tiến về phía cầu thang thoát hiểm của ngăn chứa hành lí dýới bụng máy bay. Peter ngýớc nhìn lên phòng đợi nơi các hành khách của chuyến tới đang ngồi chờ đến giờ lên máy bay.

- Dù sao thì cũng còn khá hõn là bay cùng với vài ðứa trẻ con!

- Chúng ta sẽ gọi cho Jonathan ngay khi ðến Boston. Clara nói.

- Không, chúng ta sẽ gọi cho cậu ấy từ trên ðó. Peter nói và chỉ tay lên trời. Rồi anh býớc lên thang.

* * *
 
Jonathan đã ngủ rất ít. Khi ra khỏi buồng tắm, anh nghe thấy tiếng býớc chân của Anna ðang ði lên xýởng vẽ. anh khoác một chiếc áo choàng bông và ði luôn xuống bếp. tiếng chuông ðiện thoại reo vang. Anh nhấc ống nghe trên týờng và lập tức nhân ra giọng nói của Peter.

- Cậu biến ði ðâu thế? Jonathan hỏi, tớ tìm cách liên lạc với cậu hai ngày nay mà không được!

- Thế giới này đảo lộn mất rồi. tớ đang ở độ cao 10000m trên Đại tây dương.

- Cậu đã lên đường ra hòn đảo hoang của cậu rồi đấy à?

- Vẫn chýa ðâu, anh bạn thân mến ạ, tớ sẽ giải thích với cậu sau. Có một tin vui lớn muốn báo với cậu, nhýng tớ sẽ chuyển máy cho cậu nói chuyện với một ngýời trýớc ðã.

Peter đưa điện thoại cho Clara. Khi nghe thấy tiếng cô, Jonathan ghì chặt ống nghe vào tai mình.

- Jonathan, chúng ta có bằng chứng rồi! em sẽ kể cho anh nghe mọi chi tiết khi nào đến nơi, thật không thể tin được. chuyến bay của em sẽ tới sân bay Logan vào lúc năm giờ chiều.

- Anh sẽ chờ hai người ở sân bay. Jonathan nói và bỗng cảm thấy mọi mệt mỏi tan biến.

Em rất muốn gặp anh ngay, nhýng ðến sân bay em và Peter sẽ phải ði cùng ðội bảo vệ. bọn em sẽ phải theo các bức tranh tới tận phòng chứa két an toàn của hãng Christie’s. em đã đặt một phòng tại khách sạn Four Seasons, anh hãy đến gặp em ở đó, em chờ anh trong sảnh vào lúc 8 giờ tối.

- Và anh hứa sẽ đưa em đi dạo dọc bờ sông cạnh khu cảng cũ. Buổi tối khung cảnh ở đó tuyệt đẹp. Rồi em sẽ thấy.

Clara quay ra ô cửa kính của máy bay.

- Em nhớ anh lắm Jonathan ạ!

Cô trả máy cho Peter, anh chào bạn rồi cất điện thoại vào ngăn dưới thành ghế ngồi. Jonathan gác ống nghe lên týờng, Anna cũng bỏ ðiện thoại trong xýởng vẽ. cô lấy ðiện thoại di ðộng, lại gần cửa sổ và bấm máy gọi ði Cambridge. 15 phút sau, cô ra khỏi nhà.



* * *

Cô tiếp viên býớc vào khoang phát phiếu nhập cảnh cho hành khách. - Cô không muốn Jonathan tới gặp chúng ta rồi cùng về bằng xe an ninh ý? Peter hỏi.

- Tôi ðã sẵn sàng chờ anh ấy 10 năm, thì cũng phải cố gắng výợt qua chút thời gian ngắn ngủi chỉ ðể lên phòng khách sạn một chút. Anh trông thấy bộ dạng tôi rồi đấy.

Nhờ xe cảnh sát tháp tùng, chỉ chýa ðầy 20 phút họ ðã vào tới thành phố. Khi bức tranh cuối cùng được đưa vào két, Clara lên ngay một chiếc taxi về khách sạn. Peter gọi xe khá để về nhà cất hành lý và lấy chiếc xe Jaguar Trýớc ðó anh ðã nhờ Jenkins cho ngýời lái xe của khu nhà tới sân bay lái chiếc Jaguar của anh về.

Trên ðýờng ði anh gọi ðiện cho ngýời bạn anh ðã nhờ dịch giúp cuốn sổ của Vladimir. Anh ta đã làm việc cả ngày lẫn đêm trên những trang giấy viết tay và vừa mới gửi cho anh qua thý ðiện tử phần ðầu tiên của bản dịch. Phần còn lại, chủ yếu toàn các công thức hóa học, anh ta sẽ cần một ngýời hiểu biết nhiều hõn về ngành này giúp ðỡ. Peter chân thành cảm õn bạn. Chiếc taxi ðã về đến khu nhà. Anh chạy vội qua sảnh, tảng lờ ánh mắt của ngýời gác cổng rồi nôn nóng ðứng dậm chân trong thang máy. Vừa vào ðến nhà, anh vội vã bật máy tính và in ngay bản dịch ra giấy.

Mýời phút sau anh trở xuống nhà, gần nhý chỉ có thời gian tắm qua loa và thay một chiếc áo sõ mi sạch. Jenkins chờ anh trên bậc thềm. Ông ta mở chiếc ô to che cho anh khỏi làn mýa nhẹ ðang rõi trên phố.

- Tôi ðã gọi ngýời ðýa xe của ông ðến. Jenkins thông báo và chãm chú nhìn phía chân trời mù mịt.

- Thời tiết thật đáng ghét phải không? Peter nói.

Cặp đèn pha tròn của chiếc xe hộp hiệu Jaguar XK 140 ló ra khỏi cổng nhà để xe. Peter bước lại phía xe của mình, được nửa đường, anh dừng bước và quay ngýời ôm chầm lấy Jenkins.

- Ông ðã có gia đình chýa ấy nhỉ Jenkins?

- Chýa, thýa ông, thật ðáng buồn nhýng tôi vẫn còn độc thân.

Trên đường, Peter gọi điện cho Jonathan rồi ghé lại chiếc micro được gắn trên tấm chắn nắng và hét lên.

- Tớ biết chắc cậu đang ở đó! Cậu không thể tưởng tượng được cái hệ thống chặn cuộc gọi của cậu làm tớ khó chịu tới mức nào đâu. Cho dù cậu đang làm gì đi nữa, thì cậu cũng chỉ còn có 10 phút thôi, tớ sắp đến

Chiếc xe đậu dọc vỉa hè. Jonathan lên xe và Peter khởi động máy ngay lập tức.

- Tớ muốn cậu kể cho tớ nghe mọi chuyện. Jonathan nói.

Peter kể cho bạn nghe câu chuyện về khám phá khó tin của anh đêm trýớc. Vladimir ðã dùng một thứ sõn phủ mà chỉ có một thứ ánh sáng ðặc biệt chiếu trực diện lên bức tranh mới có thể xuyên qua ðó. Bố trí mọi điều kiện cần thiết để hiện tượng đó có thể xảy ra sẽ khá phức tạp, song với sự trợ giúp của máy tính, họ sẽ làm được.

- Khuôn mặt đó trông giống Clara lắm à? Jonathan hỏi.

- Với độ chính xác đến nhường ấy, thì cậu hãy tin tớ, nó còn đáng ngạc nhiên hõn cả sự giống nhau thông thýờng.

Và khi Jonathan tỏ vẻ lo lắng vì không biết Peter có tin rằng một lúc nào đó có thể tái hiện lại cho anh xem hiện tượng mà cậu ta may mắn được chiêm ngýỡng ðêm hôm trýớc, Peter liền trấn an bạn, các nhà hóa học chắc chắn sẽ tìm ra cách để dich những công thức của nhà danh họa, và ngay cả nếu việc đó cần mất khá thời gian, thì một ngày nào đó bức tranh cũng sẽ được trả về trạng thái ban đầu của nó.

- Cậu có nghĩ rằng đó là điều ông ấy muốn không? Radskin chắc chắn phải có lý do thì mới tìm cách giấu chữ ký của mình nhý vậy chứ.

- Một lý do rất chính ðáng. Peter khẳng ðịnh. Đây là bản dịch cuốn nhật ký của ông ấy. Chắc chắn cậu sẽ hài lòng.

Peter với tập tài liệu để trên ghế sau và đưa cho bạn. anh bạn của Peter đã đính kèm bản chụp các trang gốc vào từng trang bản dịch. Jonathan đưa tay rờ nhẹ nét chữ của Vladimir và bắt đầu đọc.

Clara,

Cuộc sống của cha con mình đã không hề dễ dàng kể từ khi mẹ con qua đời. cha vẫn còn nhớ cuộc chạy trốn ấy, khi hai cha con mình đã phải cuốc bộ qua những vùng thảo nguyên nýớc Nga. Cha cõng con trên vai, và chỉ cần cảm thấy đôi bàn tay nhỏ bé của con túm chặt lấy tóc mình là đủ để cha không bao giờ bỏ cuộc. cha đã nghĩ rằng chúng ta sẽ thoát khi đến nước Anh, song sự cùng quẫn lại dai dẳng mai phục cha con mình tại London. Những ngày lang thang trên đường phố để vẽ người qua đường, cha đã nhờ vài bảo mẫu trông coi con. Để đổi lại, cha trả cho họ những khoản tiền ít ỏi kiếm được nhờ thỉnh thoảng bán một vài bức họa. rồi cha đã týởng Ngài Edward là vị cứu tinh của mình. Liệu một ngày nào đó con có tha thứ cho cha vì sự nhẹ dạ đã khiến cho cha con mình bị chia rẽ ngay từ ngày đầu dọn đến đây? Ông ấy chăm chút con như con đẻ của mình, song chính vì vậy mà ông ấy vừa chiếm được lòng tin của cha vừa phản bội lòng tin ấy. con chỉ mới lên ba tuổi khi ông ấy týớc con khỏi vòng tay cha. Cha vẫn còn nhớ mãi mùi thõm con trẻ výõng trên trán cha khi con hôn cha lần cuối cùng cách đây đã rất lâu. Căn bệnh ngày càng xâm lấn khiến cõ thể cha yếu dần. Langton ðã cho ngýời ðýa cha tới cãn phòng chật chội này, nõi cha ðang ngồi viết cho con. Thấm thoắt ðã 6 năm cha không được ra khỏi chỗ này; cũng từng ấy thời gian cha không được ôm con trong vòng tay, không còn được nhìn thấy ánh sáng lấp lánh trong đôi mắt con. ở trong đó cha còn thấy được sức sống mãnh liệt mà cha từng thấy ở mẹ con lúc sinh thời.

Để đổi lấy những bức tranh mà cha vẽ theo yêu cầu của ông ta, Langdon đã chăm sóc, nuôi nấng và dạy dỗ con. Ngýời ðánh xe ngựa vẫn thýờng ðến thãm và kể cho cha nghe về con.

Đôi khi, cha và ông ấy cùng ðýợc cýời với nhau, ông ấy kể cho cha nghe những gì con đã làm được và nói rằng con còn lanh lợi hõn cả con gái của Langton. Có những ngày con chõi ở trong sân, ông ấy ðã giúp cha đến gần ô cửa sổ nhỏ của tầng xép. Từ đây, cha có thể nghe thấy tiếng con và mặc dù lồng ngực cha xýõng cốt nhức nhối, cha vẫn cảm thấy hạnh phúc vì được nhìn con lớn lên. Cái bóng của ngýời ðàn ông già nua mà ðôi lúc thoáng nhìn thấy dýới mái nhà làm con vô cùng sợ hãi, chính là cha của con. Mỗi khi ra về, ngýời ðánh xe ngựa ðều phải khom mình býớc ði, ðôi vai ông ta oằn xuống dýới gánh nặng của sự câm lặng và xấu hổ. Mọi can ðảm đã rời bỏ ông ta kể từ ngày con ngựa yêu của ông ta chết. cha đã vẽ cho ông ấy một bức tranh, song bức tranh ấy cũng đã bị Langdon chiếm đoạt mất.

Clara, cha đã kiệt sức. Ngýời bạn ðánh xe ðến kể cho cha nghe một câu chuyện mà ông ta tình cờ nghe được. Những trò cá cýợc ðã đẩy Langton vào cảnh túng quẫn tiền nong và bà vợ của ông ta cho rằng, nếu cha chết đi, các bức tranh của cha sẽ có giá hõn và sẽ cứu họ khỏi bị phá sản. Từ vài ngày nay, cha cảm thấy lồng ngực ðau nhý xé và cha sợ rằng mình sẽ không thể tránh khỏi điều tồi tệ nhất. Con gái bé nhỏ của cha, nếu như không có con, nếu tiếng cýời của con từ bên ngoài không vọng vào nhý những âm thanh trong trẻo nhất của cuộc sống, thì có lẽ cha đã dám đón nhận cái chết như một sự giải thoát. Song cha không thể ra đi thanh thản trước khi biết chắc mình đã để lại cho con một kỷ vật duy nhất.

Đây là bức tranh cuối cùng của cha, một kiệt tác của đời cha, vì đó chính là con, ngýời cha vẽ trong tranh. Con mới chỉ 9 tuổi, song ngay khi còn bé, con đã mang các đường nét của mẹ con. Để Langton không thể tước đoạt bức tranh này từ tay con, cha đã có cách che khuôn mặt đi nhờ lớp sơn phủ mà chỉ có cha mới biết được công thức.

Con thấy không, những năm tháng tuổi trẻ mòn mỏi gặm trên ghế trýờng hóa học ở Saint – Pétersbourg cha tự cho là buồn tẻ cuối cùng thì cũng giúp ích được cho cha. Người đánh xe đã hứa với cha sẽ giữ gìn cuốn sổ này và trao tận tay con vào ngày sinh nhật 16 tuổi của con. Ông ấy sẽ đưa con tới gặp những người bạn Nga của cha, họ sẽ giúp con dịch những dòng chữ này. Chỉ cần áp dụng những công thức mà cha chép trong những trang sau đây là con sẽ biết cách phá đi lớp sơn phủ mà cha đã quét trên bề mặt bức tranh, làm hiện ra bức tranh, và với cuốn sổ này, con sẽ chứng minh được bức tranh này là của con. Đó là gia tài duy nhất mà cha có thể để lại cho con, con gái bé nhỏ của cha, đó cũng là di vật của ngýời cha vừa ở rất gần vừa rất xa con, nhýng lúc nào cũng yêu con vô cùng. Ngýời ta nói rằng những tình cảm chân thật sẽ không bao giờ chết, và cha vẫn mãi yêu con ngay cả khi không còn trên cõi đời này nữa.

Cha rất muốn được nhìn thấy con trýởng thành, ðýợc nhìn thấy con trở thành một ngýời phụ nữ. nếu nhý có quyền ýớc một ðiều, thì khát vọng duy nhất của cha là cuộc sống của con sẽ cho phép con đi đến tận cùng những ýớc mõ. Hãy thực hiện những ýớc mõ của mình, Clara, và đừng bao giờ sợ hãi tình yêu. Cha yêu con nhý cha ðã từng yêu mẹ của con và cha sẽ còn mãi mãi yêu mẹ của con cho tới hõi thở cuối cùng.

Bức tranh này là của con, vì con,

Clara của cha, con gái yêu của cha.

Vladimir Radskin, 18 tháng 6, năm 1867.


Jonathan gấp tập giấy lại. anh không thể thốt lên nổi lời nào với bạn.

* * *

Clara býớc ra khỏi bồn tắm và quấn một chiếc khãn bông quanh ngýời. Cô ngắm nhìn khuôn mặt mình trong tấm gýõng treo trên bồn rửa và nhãn mặt. chiếc va li của cô mở tung trên giýờng và ðồ ðạc nằm rải rác tới tận tràng kỷ. Tất cả những thứ nào trông giống một chiếc váy dài đều đã được ném lên những mắc treo lủng lẳng hoặc chiếc chụp đèn chân cao, trên đỉnh ống thông khói móc vào nắm tủ týờng. Gần cửa sổ, một vài bộ trang phục khác bị vo tròn vất dýới chân ghế bành. Có thể cô sẽ mặc quần Jean, với ðiều kiện chiếc áo sõ mi nam ði kèm phải dài trùm qua hông.



Cô rời khỏi căn phòng bừa bãi, đóng cửa và mắc lên nắm đấm tấm biển nhỏ ghi dòng chữ " Xin đừng quấy rầy”. Cửa thang máy mở ra sảnh, Clara nhìn đồng hồ, mới 8 giờ kém 10. Trong khi chờ đợi Jonathan, cô muốn uống chút gì cho đỡ khát. Một ly rượu vang sẽ làm cô cảm thấy thoải mái. Cô býớc vào quán rýợu của khách sạn và ðến ngồi ở quầy bar.

* * *

Chiếc xe Jaguar cũ tiến về phía trung tâm thành phố. Khi họ tới cửa khách sạn nõi Clara ở, Jonathan quay về phía Peter.

- Cô ấy ðã đọc bức thư đó chưa?

- Chưa, bản dịch vừa mới được gửi đến cho tớ, ngay trước khi tớ đến đón cậu.

- Peter, tớ muốn đề nghị cậu một điều…

- Tớ biết, Jonathan, chúng ta sẽ rút bức tranh ra khỏi danh sách đấu giá.

Jonathan đặt bàn tay lên vai Peter đầy vẻ biết ơn. Khi anh xuống xe, Peter mở cửa kính và nói với theo:

- Thế nào cậu cũng sẽ ra đảo hoang thăm tớ chứ?

Jonathan đưa tay vẫy bạn.
 
Chương 11Jonathan bước vào khách sạn Four Seasons. Tim anh đập rộn ràng vì hồi hộp. anh tìm Clara và býớc tới quầy lễ tân. Ngýời trực ban gọi lên phòng nhýng không thấy ai trả lời. một ðám ðông ðang xúm xít trýớc cửa quầy rýợu. Jonathan týởng trận ðấu bóng chày có lẽ đã thu hút nhiều ngýời hõn sức chứa của gian bên trong. Bỗng anh nghe có tiếng còi hú phía sau lýng. Một chiếc xe cấp cứu ðang chạy tới. anh tiến về phía ðám ðông và tìm cách chen vào. Clara đang nằm dài, bất động dưới chân quầy bar, người phục vụ quầy đang quạt cho cô bằng một chiếc khăn.

- Tôi không biết cô ấy bị sao! Anh ta hốt hoảng nhắc đi nhắc lại.

Clara vừa uống một ly rượu vang, rồi chỉ vài phút sau, cô ngã gục xuống.

Jonathan quỳ xuống và ấp bàn tay cô trong tay anh. Mái tóc dài của cô rũ xuống hai bên khuôn mặt. Đôi mắt cô nhắm nghiền, sắc mặt nhợt nhạt, một dòng máu đỏ chảy ra từ khóe miệng. Rượu vang đổ lênh láng từ ly rýợu vang hòa lẫn với máu của Clara, chảy trên sàn nhà lát đá thành dòng đỏ thẫm.

Các bác sĩ đã chạy tới từ cửa khách sạn, kéo theo một chiếc cáng cứu thýõng. một ngýời ðàn bà tóc trắng býớc ra từ sau chiếc cột, nhã nhặn nhýờng ðýờng cho họ.

Jonathan býớc lên xe cấp cứu. Đèn hiệu của xe phản chiếu loang loáng qua dãy kính của các cửa hàng dọc hai bên con đường hẹp. Người lái xe hy vọng họ có thể tới bệnh viện trong vòng chýa ðầy 10 phút, Clara vẫn chýa tỉnh.

- Huyết áp ðang tụt dần. Một bác sĩ cấp cứu nói.

Jonathan cúi xuống ngýời cô.

- Anh xin em. Đừng ðối xử với anh nhý vậy! Anh thì thầm và ôm chặt cô trong tay.

Bác sĩ đẩy anh ra để đặt một kim truyền vào tay Clara. Dung dịch nýớc biển chuyển dần vào mạch máu, nó sẽ ðýợc ðẩy về tim ðể tiếp sức cho mạch ðập. kế áp nhích lên vài bậc. Hài lòng, bác sĩ hồi sức đặt một tay lên vai Jonathan tỏ ý an ủi anh. Lúc bấy giờ, anh vẫn chýa biết dung dịch ðó mang theo dòng chảy của mình hàng ngàn phân tử lạ, cho chúng cõ hội xâm chiếm và tấn công các tế bào cõ thể. Jonathan âu yếm vuốt ve khuôn mặt Clara; khi ngón tay anh lýớt trên má cô, dýờng nhý cô mỉm cýời với anh. Khi xe vừa dừng lại trýớc cửa cấp cứu, các nhân viên ðặt Clara lên một chiếc giýờng có bánh xe. Rồi họ vội vã đẩy chiếc xe như bay trên hành lang.những ánh đèn nê-ông lýớt qua trên ðầu khiến ðôi mắt cô nhý hõi ðộng ðậy. Jonathan nắm tay cô cho tới tận cửa phòng khám. Peter nhận được điện thoại của anh cũng vừa tới nơi, cậu ta chọn chỗ ngồi trên một trong những băng ghế trống kê dọc hành lang dài. Jonathan đang nóng ruột đi đi lại lại.

- Cậu đừng quá lo lắng như vậy, cô ấy chỉ bị ngất đi chốc lát thôi. Mệt mỏi vì chuyến đi, quá xúc động vì những chuyện vừa qua, niềm vui vì được gặp lại cậu. Giá mà cậu nhìn thấy cô ấy khi bọn tớ về đến sân bay. Nếu không có tớ ngăn lại, đễ cô ấy đã tự xông ra mở cửa trong khi máy bay chýa dừng hẳn! ðấy, cậu thấy không, cậu ðã cýời rồi ðấy! cậu nên gặp tớ thýờng xuyên hõn. Chỉ có tớ mới biết cách làm cho cậu thý giãn. Tớ nghĩ thiếu chút nữa cô ấy đã giật cuốn hộ chiếu khỏi tay nhân viên hải quan, khi anh ta hỏi cô ấy định ở lại trong bao lâu.

Song Jonathan, lúc này vẫn không ngừng đi đi lại lại dọc hành lang, có thể cảm nhận sự lo lắng của bạn mình đang tăng dần theo từng lời. hai giờ sau, một bác sĩ đến gặp họ. Giáo sư Alfred Moore, mà Peter đã nhờ gọi giúp, cũng không thể nào hiểu nổi trýờng hợp của bệnh nhân ðýợc gửi ðến chỗ ông. Các báo cáo xét nghiệm mà ông ðã đọc chẳng tuân theo bất cứ một logic nào. Cõ thể của Clara ðột nhiên sản sinh ra cả một ðội quân kháng thể rồi tấn công các tế bào máu của chính cô. Bạch cầu đang hủy diệt các tế bào hồng cầu với một tốc độ đáng kinh ngạc. Nếu cứ tiếp tục chẳng mấy chốc các thành mạch máu của Clara sẽ vỡ tung.

- Chúng ta có bao nhiêu thời gian để cứu cô ấy? Jonathan hỏi.

Moore tỏ ra bi quan. một vài nõi ðã có dấu hiệu xuất huyết dýới da, các bộ phận cõ thể cô có lẽ cũng sắp bị xuất huyết. chậm nhất là ngày mai, các ðộng mạch, tĩnh mạch của cô sẽ bị lần lýợt bị vỡ.

- Nhýng cũng phải có một cách nào ðó ðể ðiều trị chứ! Bao giờ cũng phải có một cách ðiều trị. Trời ạ! Chúng ta ðang ở thế kỉ 21, y học không còn bất lực nhý trýớc kia nữa. Peter nổi cáu.

Moore nhìn anh vẻ áy náy.

- Hãy đến tìm chúng tôi sau hai hay ba thế kỉ nữa, có thể lúc đó điều anh nói sẽ là sự thật. anh Gwel ạ, để chữa được cho cô gái này, chúng tôi phải biết được nguồn gốc căn bệnh của cô ấy. Điều duy nhất tôi có thể làm lúc này là truyền cho cô ấy chất gây đông máu để kìm h.ãm tiến trình đó lại, nhưng không được quá 24 giờ.

Moore thành thật cáo lỗi và quay býớc. Jonathan ðuổi kịp ông trong hành lang. anh hỏi ông liệu có khả nãng Clara bị ðầu ðộc không.

- Anh có nghi ngờ ai không? Moore thận trọng hỏi.

- Hãy trả lời câu hỏi của tôi đã. Jonathan nhắc lại.

- Các xét nghiệm tìm kiếm chất độc đều chưa mang lại kết quả gì. Tôi có thể cho xét nghiệm sâu hõn nếu nhý anh có lý do để tin vào giả thuyết ấy.

Giáo sý Moore tỏ vẻ hoài nghi. Ông giải thích cho Jonathan rằng, nếu quả thực có chất ðộc, chúng sẽ làm biến ðổi các bạch cầu trong máu Clara khiến chúng coi các hồng cầu và tiểu cầu nhý những cá thể lạ.

- Chỉ trong trýờng hợp ấy, hệ thống tự vệ của cõ thể mới bắt ðầu quá trình tự hủy hoại nhý chúng ta ðã thấy. Ông kết luận.

- Nhýng về mặt chuyên môn, liệu ðiều ðó có thể xảy ra không? Jonathan hỏi.

- Nói ðúng ra thì điều đó không phải là không thể xảy ra. Nhýng trong trýờng hợp ðó chúng ta ðã gặp phải một loại chất độc được sản xuất đúng theo công thức máu. Để chế tạo thành công loại độc dược như vậy cần phải biết chính xác công thức máu của nạn nhân.

- Vậy ta có thể lọc máu hay thay máu cho cô ấy không? Jonathan nài nỉ.

Giáo sý Moore buồn bã.

- Muốn làm vậy thì cần một lýợng máu vô cùng lớn…

Jonathan ngắt lời ông, ðề nghị lấy máu của anh. Rồi nói thêm anh thuộc nhóm máu A dýõng tính.

- Cô ấy có máu âm tính và thuộc một nhóm máu khác. Nếu một trong hai ngýời truyền máu cho nhau thì ngýời kia sẽ chết ngay tức khắc.

Moore chân thành nói thêm rằng ông rất thông cảm nhýng ðiều Jonathan vừa nói là không thể thực hiện ðýợc. Ông hứa sẽ liên lạc với phòng huyết thanh để tìm hiểu thêm nhằm tìm ra chất độc trong máu nếu có.

- Thú thật với anh, đó sẽ là hi vọng duy nhất của chúng ta, một số chất độc có thể tìm ra thuốc giải.

Ông không dám nói thêm rằng ông đã chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Thời gian không đứng về phía họ. Jonathan cảm ơn ông. Anh chạy về gặp Peter. Anh xin bạn đừng hỏi anh bất kỳ điều gì và bắt bạn hứa phải túc trực bên Clara.Anh sẽ quay về sau vài giờ đồng hồ. Nếu tình trạng Clara trở nên tồi tệ thì Peter phải gọi vào di động cho anh biết.

Anh qua cầu và výợt ðèn ðỏ ở tất cả các ngã tý trên ðại lộ Camden. Anh ðậu xe sát vỉa hè và vội vã býớc tới ngôi nhà số 27. Một ngýời ðàn ông từ trong nhà ði ra cùng với con chó. Jonathan liền tận dụng cõ hội, anh lao ngay vào sảnh và vội vã vào thang máy. Anh đấm thình thịch vào cánh cửa nằm cuối hành lang. Khi Alice ra mở cửa, anh tóm lấy cổ mụ và đẩy mụ tới tận cuối phòng khách. Mụ già tóc trắng loạng choạng ngã vào chiếc bàn một chân kéo Jonathan ngã chúi theo. Mặc dù đã gắng dùng hết sức chống cự nhýng mụ vẫn không thể thoát khỏi hai bàn tay của Jonathan ðang siết chặt. Mụ chới với khua tay trên không rồi một tấm màn màu đỏ bắt đầu hiện ra che khuất tầm nhìn của mụ. Cảm thấy mình sắp ngất đi, mụ hầu như chỉ còn đủ sức thì thào rằng mụ có thuốc giải độc. Vòng siết được nới lỏng dần và không khí bắt đầu vào tới phổi mụ già.

- Ở đâu? Jonathan hét lên trong khi vẫn ghì chặt mụ xuống sàn.

- Tôi chẳng hề sợ chết, và anh biết rất rõ nguyên do. Thế nên nếu anh muốn cứu Clara của anh, thì anh phải thay đổi thái độ.

Jonathan đọc thấy trong mắt mụ rằng lần này thì mụ không hề nói dối. Anh buông tay.

- Tôi biết là anh sẽ đến. nhưng không nghĩ là sớm nhý vậy. Mụ vừa nói vừa ðứng dậy.

- Vì sao bà làm thế?

- Bởi tôi là ngýời býớng bỉnh! Alice vừa nói vừa xoa khuỷu tay. Clara phải trả giá về những gì nó gây ra.

- Bà đã nói dối. Clara không phải là con gái lớn của Langton.

- Đúng vậy. Chính vì thế mà đối với tôi tội nó còn lớn hõn nữa. Sau cái chết của cha nó, chồng tôi ðã chính thức nhận nó làm con nuôi. Ông ấy yêu thýõng nó nhý con ðẻ của mình, ông ấy là ngýời bảo trợ của nó, vậy mà nó đã phản bội ông ấy và lấy trộm bức tranh.

- Langton đã sát hại Vladimir! Jonathan thét lên.

- Không, không phải ông ấy! Alice Walton nói, giọng tự mãn. Chồng tôi chỉ là một ngýời nợ ðầm ðìa vì thua cá cýợc, song cần phải có ai ðó sửa chữa các yếu ðiểm và sai lầm của ông ấy, cứu chúng tôi thoát khỏi cảnh phá sản. Sáng kiến đó là của tôi, ông ấy hoàn toàn không hay biết gì.

- Nhýng Clara thì biết, cô ấy đã tìm thấy nhật ký của Vladimir. Cô ấy đã không hề phản bội chồng bà, thậm chí cô ấy còn không thèm trả thù, cô ấy chỉ thực hiện nguyện vọng cuối cùng của ngýời cha. Chúng tôi chỉ ngãn cản không cho các ngýời bán bức tranh mà các ngýời cýớp ðoạt của cô ấy.

- Anh muốn nói sao cũng ðýợc nhýng lúc này ngýời có thuốc giải là tôi.

Alice lấy từ trong túi áo khoác ra một lọ nhỏ bên trong ðựng thứ dung dịch màu hổ phách. Mụ nói các bác sĩ sẽ không thể nào tìm ra dấu vết loại độc dược mà mụ đã rót vào ly rýợu của Clara, bất kể cô còn sống hay đã chết. anh chẳng còn cách nào khác để cứu cô ngoài việc tuyệt đối tuân thủ mọi yêu cầu của mụ. Đám cưới con gái mụ ngày mai sẽ tập hợp đông đủ giới thượng lưu ở Boston. Đương nhiên hai mẹ con mụ không muốn phải đương đầu với một lời hủy hôn ước vào phút cuối. anh và Clara đã phá hoại danh dự của chồng mụ, Alice sẽ không thể chấp nhận nếu họ lặp lại điều đó với con gái mụ. Đúng giờ trưa, Jonathan ssẽ thành hôn với Anna. Sau lễ cýới, mụ sẽ tới thãm Clara và cho cô uống thuốc giải ðộc.

- Tại sao tôi phải tin bà? Jonathan hỏi.

- Vì thời gian còn lại không cho phép anh có sự lựa chọn nào khác! Giờ thì hãy ra khỏi nhà tôi. Ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau tại nhà thờ!

* * *
 
Phòng bệnh chìm trong thứ ánh sáng đục như sữa. Peter ngồi trên chiếc ghế kê cạnh giýờng. một nữ y tá býớc vào chuẩn bị lấy máu thêm lần nữa. cô rút ðýờng truyền và lấy 6 ống nghiệm thủy tinh hứng vào chót kim cắm trên cánh tay Clara. Từng ống một được đong đầy thứ dung dịch càng lúc càng loãng và màu đỏ cũng nhạt dần đi. Mỗi lần được một ống nghiệm đầy, cô đóng nút lại, lắc ống thật mạnh trước khi để chúng lên chiếc khay. Khi ống cuối cùng vừa đầy, cô mắc lại đường truyền, tháo đôi găng tay và mang ra vứt vào thùng đựng rác thải y tế. trong khi cô vẫn còn quay lýng lại, Peter nhón lấy một ống và nhét sâu vào trong túi áo vest.

* * *

Sau khi Jonathan bực tức bỏ đi, Anna bước ra khỏi chỗ nấp. Cô ngồi vào ghế bành và chăm chú nhìn mẹ.

- Tất cả những điều đó còn có nghĩa lý gì nữa hả mẹ? Rồi anh ấy sẽ ly dị ngay thôi.

- Con gái đáng thương của mẹ, Alice trả lời, mẹ còn rất nhiều điều phải dạy cho con! Ngày mai nó sẽ kết hôn với con, ngýời ta không thể ly dị nhau trýớc sự chứng giám của Chúa. Nó sẽ trả lời ðồng ý kết hôn với con trong khi con bé Clara đang chết dần, nó sẽ bội lại lời thề ước đã gắn kết chúng trong quá khứ. Lần này thì chúng sẽ phải xa nhau mãi mãi.

Alice mở nắp chiếc lọ nhỏ và rẩy thứ nýớc bên trong vào lòng bàn tay. Mụ đưa tay xoa lên gáy.

- Đây là nýớc hoa của mẹ! Mụ nói bằng giọng vui sýớng. mẹ ðã nói dối nó!

Anna đứng lên, không nói một lời nào, cô cầm lấy túi và đi về phía cửa. cô nhìn mẹ, hõi ýu tý, rồi ðóng cửa lại.

- Mẹ cũng ðã nói dối cả con. Anna nói và buồn bã bỏ đi.

* * *

Jonathan býớc vào phòng và Peter đi ra để họ ở lại với nhau.

Anh ngồi lên giýờng và ðặt môi lên trán Clara.

- Em thấy không, anh hôn em và chúng ta vẫn ở lại cùng hiện tại, anh thì thầm và thấy cổ họng nghẹn lại.

Đôi mắt Clara hé mở, rồi nở nụ cười nhợt nhạt, cô gắng sức nói vài lời.

- Phải nói rằng em cũng chẳng còn nhiều sức lực nữa, anh biết không.

Cô siết chặt các ngón tay đang nắm lấy tay Jonathan và nói tiếp bằng giọng yếu ớt.

- Mĩnh vẫn chýa cũng nhau ði dạo trên bờ sông dọc khu cảng cũ của anh.

- Anh sẽ ðýa em ðến ðó, anh hứa với em.

Em phải kể cho anh nghe câu chuyện của chúng ta, tình yêu của em, bây giờ thì em biết vì em đã mõ thấy ðêm qua.

- Anh xin em, Clara, hãy giữ sức!

- Anh có biết chúng ta đã làm gì sau khi Langton trốn khỏi lâu đài không? Chúng ta đã yêu nhau, và cho tới tận giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng ta đã không ngừng yêu nhau.

Cô nhắm mắt và khuôn mặt cô hiện rõ nét đau đớn đang vò xé thân mình.

- Khi nhận em làm con nuôi, Langton đã biến em thành ngýời thừa kế của ông ta. Nhờ ham làm, gắng sức trong công việc, cuối cùng chúng ta có thể trả hết nợ nần và có thể giữ lại trang viên. Chúng ta đã sống ở đó trong tình yêu, Jonathan ạ, cho tới tận ngày cuối cùng của cuộc đời. khi anh qua đời, em đã đặt anh dưới cây cổ thụ. Em đã giấu bức tranh trên tầng xép và tới nằm bên anh, cho đến khi sự sống. Và chính trong cái đêm duy nhất không có anh ở bên ấy, em đã thề sẽ yêu anh ngay cả khi chết đi và sẽ tìm lại anh cho dù anh có ở bất cứ nõi ðâu. Anh thấy không, em ðã giữ lời và anh cũng thế.

Nghẹt thở vì đau đớn, Jonathan ôm Clara trong vòng tay và tựa đầu cô lên vai anh.

- Đừng nói gì nữa, anh xin em! Hãy nghỉ ngõi ði, tình yêu của anh.

- Giá nhý anh biết em yêu anh ðến nhýờng nào, Jonathan. Mỗi giây phút không có anh ðều không ðáng ðể em phải sống. hãy nghe em, em biết mình còn rất ít thời gian. Những tuần vừa qua là quãng thời gian đẹp nhất trong đời em, không gì có thể sánh được với niềm hạnh phúc mà anh đã mang lại cho em. Giờ thì anh phải hứa với em rằng anh cũng sẽ sống hạnh phúc. Em muốn anh sống tiếp, Jonathan. Đừng chối bỏ hạnh phúc,có biết bao điều kì diệu sâu thẳm trong mắt anh. Rồi chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Có thể là vẫn còn kiếp sau.

Đôi mắt Jonathan ầng ậng nước. Thu hết sức lực còn lại, Clara đưa tay vuốt má anh.

- Hãy ôm em chặt thêm một chút, Jonathan của em. Em thấy lạnh quá.

Đó là những lời cuối cùng của cô. Đôi mắt Clara khép lại và khuôn mặt cô bình lặng trở lại. tim cô đập rất nhẹ. Jonathan thức trông cô suốt đêm. Anh ôm cô vào lòng và âu yếm ru cô. Hõi thở anh hòa với nhịp sống mong manh của Clara. Bình minh ló rạng, mỗi giờ trôi qua, thể trạng cô lại đuối dần. Jonathan đặt một chiếc hôn dài lên môi cô rồi đứng dậy. Trýớc khi rời khỏi phòng, anh quay lại thì thầm.

- Anh sẽ không để em ra đi, Clara ạ.

Khi cánh cửa khép lại, một dòng máu chảy ra từ cõ thể của Clara nhuốm màu ðỏ lên tấm khãn ðắp trên mình cô. Mái tóc dài của cô ôm lấy khuôn mặt thanh thản. Ánh sáng chiếu vào căn phòng đã hoàn thành nốt một bức tranh Thiếu nữ áo đỏ.

* * *

Peter hiện ra ở đầu hành lang, anh nắm lấy vai Jonathan và kéo bạn về phái máy bán nýớc tự ðộng. Anh nhét một ðồng xu vào khe và ấn nút cà phê ðặc.

- Cậu sẽ cần và tớ cũng thế. Anh vừa nói vừa ðýa chiếc cốc cho Jonathan.

- Tớ có cảm giác ðang sống một cõn ác mộng giữa ban ngày. Jonathan nói.

- Hy vọng mình gặp nhau trong đó vì chính tớ cũng thấy nhý vậy. Peter thở dài. Tớ ðã gọi điện cho một người bạn ở phòng hình sự. Tớ sẽ gửi gấp cho cậu ấy bằng chuyển phát nhanh mẫu máu của Clara mà tớ lấy trộm của cô y tá. Cậu ấy sẽ cho những kỹ thuật viên hình sự giỏi nhất phụ trách vụ này, tớ thề với cậu là chúng ta sẽ lột da cái đồ rác rưởi đã gây nên sự thể này.

- Thế cậu kể gì cho anh bạn cảnh sát của cậu? Jonathan hỏi.

- Toàn bộ câu chuyện. Thậm chí tớ còn hứa sẽ gửi cho cậu ấy toàn bộ ghi chép của hai đứa mình cùng với cuốn sổ của Vladimir.

- Thế cậu ấy không muốn tống ngay cậu vào trại tâm thần sao?

- Đừng lo, Pilguez là chuyên gia về các hồ sõ kỳ lạ. Cách ðây vài nãm cậu ấy ðã kể cho tớ nghe một trong các vụ án của cậu ấy ở San Francisco, mà so với vụ ấy thì chuyện của chúng ta chỉ coi nhý chuyện thýờng ngày.

Jonathan nhún vai và tiến về phía cửa. trong lúc anh đi xa dần, Peter gọi với theo.

- Lát nữa tớ sẽ đi với cậu, đừng có quên đấy, và cho dù câu chuyện của hai ngýời có thể khiến tớ bị coi là ðiên, thì sau khi đã cứu sống được Clara, tớ sẽ là ngýời làm chứng ðấy.

* * *
 
Tất cả các ghế trong nhà thờ Saint Stephen đều đẫ chật kín. Giới thượng lưu Boston dường như đang hẹn nhau ở đâu đó dọc lối đi chính. hai chiếc xe cảnh sát đậu chắn lối vào phố Clark trong suốt thời gian cử hành hôn lễ. Peter đã ngồi vào chỗ bên phải Jonathan, vẻ mặt u ám. Nhạc lễ cử hành và toàn bộ cử tọa lặng lẽ quay lại. Anna kéo đuôi váy lướt thướt đi về phía gian giữa của nhà thờ trong vòng tay mẹ cô và cũng là ngýời làm chứng cho cô. Hôn lễ sẽ bắt ðầu vào lúc 11 giờ sáng. Ngồi xuống bên trái con mình, Alíce nở nụ cýời với Peter, trông mụ thật hớn hở.

* * *

Giáo sý Moore býớc vào phòng của Clara. Ông đến bên giýờng và ðặt tay lên trán cô. Nhiệt ðộ không ngừng tãng lên. Ông ngồi ghé xuống giýờng và thở dài buồn bã. Giáo sý với một chiếc khãn giấy trên bàn và lau dòng máu đang rỉ ra từ mũi cô. Ông đứng lên chỉnh lại tốc độ của dịch truyền. Đôi vai trĩu xuống, giáo sư bước ra khỏi phòng, nhẹ nhàng khép cánh cửa lại sau lýng. Clara mở mắt, cô rên lên khe khẽ rồi lại chìm vào cõn mê.

* * *

Hôn lễ đã bắt đầu được nửa giờ và vị linh mục chuẩn bị yêu cầu cô dâu chú rể đọc lời nguyện ước của mình. Ông cúi về phía Anna và nở nụ cýời ðộ lýợng. nhýng cô không nhìn ông. Đôi mắt giàn giụa nýớc, cô nhìn chăm chăm vào mặt mẹ mình.

- Hãy tha lỗi cho con, cô thì thầm.

Cô hýớng ánh mắt về phía Jonathan và nắm lấy tay anh.

- Anh sẽ không thể làm ðýợc gì cho cô ấy nữa, Jonathan, nhýng anh còn có thể làm được một điều cho cả hai người.

- Em nói gì vậy?

- Anh hiểu rất rõ mà, hãy rời khỏi đây trước khi mọi chuyện trở nên quá muộn. Anh không thể cứu được cô ấy nữa nhưng anh vẫn có thể quay về bên cô ấy, hãy đi đi.

Cả nhà thờ rung lên trong tiếng thét điên cuồng của Alice Walton khi Jonathan và Peter lao nhanh trên lối ra. Vị linh mục đứng sững người, hai cánh tay đung đưa, cả gian phòng bật dậy khi hai ngýời chạy qua những cánh cửa lớn. Từ bậc thềm cửa, Peter gọi viên cảnh sát đang đứng dựa lưng vào thành xe.

- Tôi đang thực hiện công vụ bí mật theo lệnh của thanh tra Pilguez ở phòng hình sự San Francisco, anh có thể kiểm tra điều này trên đường đi, đây là chuyện liên quan tới sự sống chết, hãy đưa ngay chúng tôi tới bệnh viện Memorial Boston.

Hai người bạn không nói với nhau một lời nào suốt dọc đường. Tiếng còi xe cảnh sát nhý dẹp lối cho con ðýờng mở ra trýớc mắt họ. Jonathan tựa ðầu vào kính xe, ðôi mắt nhòa mờ, anh nhìn những chiếc cần cẩu trên bến cảng đang trôi về phía xa xa. Peter choàng tay qua vai bạn siết chặt.

Khi họ tới trýớc cửa phòng Clara, Jonathan quay nhìn ngýời bạn thân nhất của mình hồi lâu.

- Cậu có thể hứa với tớ một điều không, Peter?

- Bất cứ điều gì cậu muốn!

- Cho dù có mất bao nhiêu thời gian đi nữa thì cậu cũng phải trả lại công bằng cho Vladimir. Hãy thề với tớ rằng cho dù có xảy ra điều gì, cậu sẽ đi đến cùng, đó cũng là điều Clara mong muốn.

- Tớ thề với cậu! chúng ta sẽ cùng nhau làm điều đó. Tớ sẽ không bao giờ bỏ cuộc.

- Cậu sẽ phải thực hiện điều đó một mình, anh bạn thân mến ạ. Tớ không thể làm được nữa rồi.

Jonathan nhẹ nhàng mở cửa phòng. Trong bóng tối, Clara thở rất yếu ớt.

- Cậu muốn rời khỏi Boston ý? Peter hỏi.

- Có thể nói nhý vậy.

- Thế cậu ðịnh ði ðâu?

Jonathan ôm choàng bạn trong vòng tay.

- Tớ cũng vậy, tớ cũng có một lời hứa, cậu biết không? Tớ sẽ đưa Clara đi dạo dọc bờ sông...trong kiếp sau.

Anh bước vào phòng và đóng cửa lại. Peter nghe thấy tiếng chìa khóa quay trong ổ.

- Jonathan cậu làm gì vậy? Peter lo lắng hỏi.

Anh đập dồn dập vào cửa, nhýng bạn anh không hề trả lời.

Jonathan ngồi xuống giýờng bên Clara. Anh cởi áo vest và kéo ống tay áo sõ mi lên cao. Anh rút kim ra khỏi túi dịch truyền rồi chọc nó vào cánh tay mình, nối hai cõ thể họ lại với nhau. Khi anh nằm xuống bên cạnh cô, máu Clara đã bắt đầu chảy vào các tĩnh mạch của anh. Anh vuốt gò má nhợt nhạt của Clara và ghé miệng vào gần tai cô.

- Anh yêu em, anh không biết làm thế nào để hết yêu em. Anh chẳng biết vì sao và để làm gì. Anh yêu em nhý vậy vì anh chẳng biết được điều gì khác. Nõi nào không có em, nõi ðó cũng chẳng có anh.

Jonathan ðặt ðôi môi mình lên môi Clara và lần cuối cùng trong đời, tất cả mọi thứ như quay cuồng trong mắt anh.

* * *

Trời vừa mới chớm thu. Peter thả bộ một mình trên con đường lát gạch trong khu chợ không mái che. Chuông di động của anh vang lên.

- Tớ đây, một giọng nói vang lên, tóm được nó rồi. tớ hứa với cậu tìm các chuyên gia giỏi nhất nýớc và tớ ðã giữ lời. họ đã tìm ra chất độc. tớ đã có lời khai của ngýời phục vụ quầy, anh ta ðã nhận ra mụ Walton. Điều thú vị nhất tớ dành cho phần cuối, chính con gái của mụ cũng đứng ra làm chứng. mụ ta sẽ không bao giờ được ra khỏi nhà tù. Cậu sẽ tới San Francisco trong một ngày gần đây chứ? Natalia rất vui mừng được gặp cậu, Pilguez nói thêm.

- Tớ hứa, trýớc Noel nhé.

- Cậu ðịnh làm gì với các bức tranh?

- Tớ cũng sẽ thực hiện một lời hứa!

- Dù sao thì tớ cũng phải nói với cậu một điều, nhưng tớ thề là tớ sẽ không bao giờ nói cho ai khác biết nữa. theo đúng yêu cầu của cậu, tớ đã so sánh mẫu phân tích ADN trong hồ sõ cậu gửi với ADN của cô gái bị đầu độc.

Peter dừng býớc, anh nín thở.

- Phòng thí nghiệm cam đoan hai mẫu máu có mối liên hệ trực tiếp với nhau. Nói cách khác, máu trên bức tranh là máu của cha cô gái. Nhýng cậu thấy ðấy, với những mốc thời gian mà cậu cung cấp cho tớ, ðiều này là không thể.

Peter tắt ðiện thoại. Hai mắt giàn giụa nýớc, anh ngýớc lên trời và bật tiếng khóc vui sýớng.

- Tớ nhớ cậu quá, Jonathan. Tớ nhớ cả hai ngýời.

Rồi anh ðút hai tay vào túi và tiếp tục býớc. vừa ði dọc theo bờ sông anh vừa mỉm cýời.

Về ðến nhà, Peter gặp Jenkins ðang chờ anh dýới mái hiên với hai chiếc va li ðặt dýới chân.

- Mọi chuyện ổn cả chứ, Jenkins? Peter hỏi.

- Tôi không biết làm gì để cảm ơn ông đã tặng chuyến du lịch này cho tôi. Suốt đời tôi chỉ mơ có ngày được đến London. Đây là món quà tuyệt vời nhất tôi từng được nhận.

- Thế ông đã cất kỹ địa chỉ và số điện thoại mà tôi đưa chưa?

Jenkins gật đầu.

- Vậy thì hãy lên đường đi, Jenkins thân mến!

Rồi Peter vừa mỉm cười vừa bước vào tòa nhà Stapledon trong khi Jenkins đưa tay vẫy chào anh và býớc lên chiếc taxi ðýa ông tới sân bay.
 
Chương 12 (End)Saint Pétersbourg rất nhiều năm sau…



Một ngày sắp kết thúc, trong vài phút nữa bảo tàng Ermitage sẽ đóng cửa. những khách tham quan trong gian phòng “ Vladimir Radskin” tiến dần về phía lối ra. Một người bảo vệ kín đáo ra hiệu cho đồng nghiệp. Hai người đàn ông mặc đồng phục khẽ khàng tiến về phía một đôi nam nữ đang chuẩn bị rời khỏi căn phòng. Khi thấy hoàn cảnh khá thích hợp, họ áp sát hai bên chàng trai và cô gái và yêu cầu hai người đi theo họ và đừng hỏi han gì. Trước sự thuyết phục rất nhã nhặn của các nhân viên an ninh, hai người khách du lịch, mặc dù không hiểu người ta muốn gì ở mình, vẫn đồng ý đi theo họ. Hai người được đưa vào một dãy hành lang dài và đi qua cánh cửa đóng kín. Sau khi đi lên cầu thang phụ và buộc phải tìm cách che giấu nỗi lo ngại mỗi lúc một tăng dần, họ đã vào rất sâu bên trong tòa nhà và được đưa đến một phòng làm việc khá rộng. đôi bạn được mời ngồi quanh một chiếc bàn họp. Có người sẽ đến gặp họ ngay. Một người đàn ông khoảng chừng 50 tuổi mặc comple sang trọng bước vào và ngồi đối diện với họ. Ông ta đặt một bộ hồ sơ trước mặt và vừa lật bộ hồ sơ xem nhiều lần vừa đưa mắt nhìn cặp thanh niên.

- Tôi phải thú thật là tôi vô cùng sửng sốt. ông nói tiếng Anh bằng giọng lơ lớ.

- Tôi có thể biết các ông đang muốn gì được không? Chàng trai hỏi.

- Đây là lần thứ ba trong tuần vừa rồi các vị tới chiêm ngưỡng các tác phẩm của Vladimir Radskin.

- Chúng tôi rất ngưỡng mộ danh họa này. Cô gái trả lời.



Youri Egorov tự giới thiệu về mình. Ông là quản đốc trưởng của bảo tàng Ermitage và ông rất hân hạnh được đón tiếp hai người tới thăm bảo tàng.

- Bức tranh mà anh chị đã ngắm cả buổi chiều hôm nay được đặt tên là Thiếu nữ áo đỏ. Bức tranh này đã được trở về nguyên trạng nhờ công việc phục chế rất vất vả do một chuyên gia đấu giá người Mỹ đảm trách. Chính ông ta là người đã tặng cho bảo tàng này năm bức tranh của Radskin hiên vẫn đang được trưng bày tại đây. Bộ sưu tập ấy có thể nói là vô giá và lẽ ra sẽ không bao giờ chúng tôi có thể sở hữu một báu vật lớn như vậy. song chính nhờ người bảo trợ hảo tâm này mà nhà danh họa lớn của nước Nga có thể thể trở về Tổ Quốc sau bao năm lưu lạc. Để đổi lại món quà lớn này cho đất nước chúng tôi, bảo tàng Ermitage đã cam kết với nhà bảo trợ thực hiện một lời hứa đặc biệt. người tiền nhiệm của tôi trước khi nghỉ hưu cách đây vài năm đã giao lại cho tôi trọng trách thi hành nhiệm vụ này.

- Nhiệm vụ gì vậy? Đôi trai gái đồng thanh hỏi.



Ông quản đốc khẽ ho vào lòng bàn tay trước khi tiếp tục.



Ngài Peter Gwel đã bắt chúng tôi phải hứa nếu như một ngày nào đó có một phụ nữ có khuôn mặt giống một cách kỳ lạ khuôn mặtThiếu nữ áo đỏ tới xem tranh , thì chúng tôi có bổn phận trao cho người đàn ông đi cùng cô ta một lá thư do chính tay ngài viết. Chúng tôi đã quan sát cô rất lâu, thưa cô, và tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng tôi phải thực hiện lời hứa của mình.

Ông quản đốc mở tập hồ sơ và trao một phong bì cho đôi thanh niên. Chàng trai mở phong bì ra. Vừa đọc bức thư lấy ra từ bên trong, anh vừa đứng lên đi đi lại lại trong căn phòng. Đọc xong bức thư, anh gấp tờ giấy lại và lặng lẽ cất nó vào trong túi áo vest. Rồi anh chắp tay sau lưng, nheo đôi mắt và mỉm cười…từ đó trở đi, nụ cười không bao giờ tắt trên môi anh…



HẾT
 
×
Quay lại
Top