TÌNH VỠ (bản tứ tuyệt)
Tình em như cánh chuồn chuồn
Khi bay đậu lại nỗi buồn riêng tôi
Dây trầu chưa quấn chợt rơi
Vành trăng chợt vỡ để người chợt xa…
1994
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả:
Tình yêu như cánh chuồn chuồn
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.
(ca dao)
Hà Tiên thu đến rồi em
Đường lên Thạch Động chông chênh nắng vàng
Mây chiều rủ gió lang thang
Bẽ bàng lá giận khẽ khàng rụng rơi.
Đá xanh xanh bám đỉnh trời
Giọt tan lách tách ướt lời đưa trao
Câu quen quen đến ngọt ngào
Câu thương thương đến bứt nhàu cỏ may.
Cầm tay rồi lại dắt tay
Dìu nhau qua hết tháng ngày buồn tênh
Nẻo lên ........lối xuống ..................gập ghềnh
Chuông rền Thạch Động ....................bồng bềnh khói sương.
Hà Tiên 1997
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Thạch Động là một danh lam thắng cảnh ở Hà Tiên. Tương truyền Thạch Động là nơi Đại Bàng giam giữ công chúa và cũng chính Thạch Sanh đã giết chết Đại Bàng để cứu công chúa tại đây.
Những câu thơ cuối Thanh Trắc Nguyễn Văn đã cố ý xếp thành hình bậc thang và tạo hiệu ứng âm thanh trong câu thơ (tênh - gập ghềnh - rền - bồng bềnh), nhằm miêu tả đường lên Thạch Động chông chênh cùng với tiếng chuông chùa âm vang trong chiều...
GIỌT LỆ MUỘN MÀNG
Cũng từ ngày ấy con khóc vùi trước cỏ
Trước mộ bia đất lạnh, hương tàn
Ngày mẹ mất là những ngày trốn học
Con bỏ nhà theo lũ bạn đi hoang.
Con đâu biết dưới mái tranh nghèo cũ nát
Mẹ thương con, chịu vất vả tháng ngày
Bát cơm trắng mẹ sớt dành cá thịt
Con ăn thường nào nếm được đắng cay.
Giờ lạc lõng giữa đường đời xuôi ngược
Con lao đao khi đã mất mẹ rồi
Hạt muối mặn mới hay còn vị chát
Bát cơm người là nước mắt đầy vơi.
Con ăn năn xin lạy quỳ trước mộ
Lệ muộn màng xin được rưới cỏ tươi
Lời mẹ dạy vọng vang từ cõi nhớ:
Dẫu bơ vơ…
Cũng phải sống
Để thành người…
1996
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Bài thơ viết từ tâm sự của một người bạn đồng hành trên một chuyến xe đò về Miền Tây.
ĐÀ LẠT TA VỀ
Đà Lạt ta về tìm trái thông
Tìm thông chợt thấy má em hồng!
Má em hồng quá thông không rụng
Rụng xuống hồn ta chút gió dông!
Đà Lạt ta về tìm trái mơ
Mơ chẳng tìm ra đến tận giờ!
Giận mình sao cứ lơ mơ mãi
Mơ nhiều đêm lạnh vẫn bơ vơ!
Đà Lạt ta về tìm trái tim
Thuở xưa rơi rớt biết đâu tìm?
Em nhặt được không thì trao lại
Thương giùm gã ấy mắt lim dim!
Đà Lạt 1995
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Bài thơ được viết tặng cho một cô giáo dạy anh văn trẻ đẹp ở trường THPT Võ Thị Sáu, có tên thường gọi ở nhà là Hồng Mơ, trong một chuyến đi Đà Lạt.
Khi ta về cơn sốt đất đang cao
Đồng tiền quẳng ra trên những đống gò ao bãi
Quán xá lềnh khênh
Nhạc tình rơi vãi
Giữa dòng đời ai nghiêng ngả
Ngả nghiêng?
Từng ngôi nhà hối hả mọc chông chênh
Vội thay mặt chủ sau mỗi lần được giá
Vườn ruộng ông cha giờ cháu con đem mặc cả
Tấc đất tấc vàng
Trong hai tiếng bán buôn.
Khi ta về nước mắt mẹ đang tuôn
Một hố lầy hoang cũng giật giành xỉa xói
Anh em nhìn nhau nghi ngờ soi mói
Chửi rủa trước nhà
Dao búa sau lưng.
Mẹ một đời người vẫn buôn thúng bán bưng
Thương đàn cháu đói lại đường xa chạy gạo
Đất chưa hóa vàng đã từng giờ rỉ máu
Bao nhân nghĩa cuộc đời theo nước lã trôi sông.
Khi ta về biết em nhớ hay không?
Hàng dâm bụt tuổi thơ đã không còn đó nữa
Một bức tường vôi mảnh chai găm tua tủa
Ngăn trở lòng người
Cứa nát những vì sao.
Ta bàng hoàng nghe vị đắng nỗi đau
Đất cao giá biến nụ cười em băng giá!
Người yêu cũ nay bỗng dưng xa lạ
Hỏi tại người
Hay tại đất
Mẹ ơi?
2000
(Tuyển tập thơ Dấu Cỏ Người Xa – NXB Văn Hóa Dân Tộc 2004)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Khoảng trước năm 2000, ở nông thôn nhiều người dân bán đất và đã trở thành đại gia chỉ sau vài ngày...
Đã có lần em gọi nhẫn
Và xoay
Giữa đêm đông lạnh lẽo
Anh vẫn hiện đến bên em
Kể em nghe chuyện cô bé Lọ Lem
Chuyện hoàng tử, bảy chú lùn và nàng Bạch Tuyết.
Đã có lần em gọi nhẫn
Và xoay
Trên sa mạc chói chang cát bỏng
Anh vẫn hiện đến bên em
Dịu dàng trao ly kem
Trao em niềm tin yêu và vị ngọt.
Đã có lần em gọi nhẫn
Và xoay
Trong bụi mù bão táp
Anh vẫn hiện đến bên em
Lau khô từng giọt lệ ướt lem
Khoác áo ấm lên đôi vai gầy lạnh buốt.
Rồi một lần em gọi nhẫn
Và xoay
Cùng đám bạn hú gào diễu cợt
Em chợt bàng hoàng thảng thốt
Chiếc nhẫn trên tay đã vỡ vụn
Gãy lìa…
1996
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Trong tình yêu điều tối kị nhất là sự thiếu trân trọng đối với người đã yêu mình.
MƯA HOÀNG HÔN
Nẻo thôn về lại một chiều
Hỏi hoa bưởi trắng sao nhiều phấn son?
Bến xưa đâu bóng trăng tròn
Lênh đênh thuyền cũ chỉ còn bơ vơ
Một thời khắc nhớ vào thơ
Khắc thương vào gió, khắc chờ vào mây
Em cười vỡ hết thơ ngây
Tình tôi rụng trắng ướt đầy hoàng hôn.
1998
(Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Khi một cô gái chân quê xinh đẹp như hoa bưởi trắng lại đổi màu phấn son thì cũng có nghĩa là đóa hoa bưởi trắng đó đã không còn tồn tại nữa...
VỀ QUÊ CŨ
Đưa nhau qua bến phà Rừng
Bỗng nghe năm tháng sấm đùng đùng vang
Mưa tuôn ướt cả bàng hoàng
Sợi thương buông xõa thả làn tóc mây.
Em cười sao mắt lại cay
Anh buồn sao nhớ những ngày cách xa
Dẫu rằng mấy núi cũng qua
Tóc tơ nối lại đã nhòa tóc xanh.
Đâu rồi đôi mắt long lanh
Đâu rồi giọt lệ thấm lành tình yêu?
Thời gian bàng bạc khói chiều
Bến thương bến đợi cũng nhiều long đong.
Bây giờ qua một bến sông
Quê hương về lại nắng hồng đường thôn
Anh về níu bóng hoàng hôn
Em về tìm nhặt tuổi hồn nhiên xưa.
Quảng Ninh 1997
(Tuyển tập thơ Thơ Nhà Giáo Tp.HCM tập 2 – NXB Trẻ 1998)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Sông Rừng còn có tên là sông Vân Cừ, nhưng nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam là với tên sông Bạch Đằng (trong thơ ca còn gọi là Bạch Đằng Giang). Tôi đến bến phà Rừng lần đầu tiên vào năm 1997. Khi ngồi đợi qua phà, trong một quán nước tôi vô tình nghe được câu chuyện của một đôi vợ chồng già phải đi làm ăn xa nay mới có dịp cùng nhau về thăm lại quê hương. Tôi đã xúc động viết bài thơ này...
CÔ HÀNG HOA (bản tứ tuyệt)
Nhìn hoa bỗng thấy một người
Nhìn người lại thấy nụ cười trong hoa
Câu chào e ấp thiết tha
Lơ ngơ cánh bướm. Ai hoa? Ai người?
2002
(Tuyển tập thơ Xôn Xao Nỗi Nhớ – NXB Văn Hóa Dân Tộc 2002)
BI KỊCH (bản tứ tuyệt)
Ngày theo chồng em khóc với hoàng hôn
Và hồn em đã thuộc về ta mãi mãi
Giờ cướp lại em bằng bạc tiền vung vãi
Ta được thân xác em nhưng lại mất linh hồn!
HÈ VỀ TỪ THÁNG SÁU
Hè về từ tháng sáu
Bụi phấn lặng lờ rơi
Mắt em chừng vời vợi
Giảng đường rồi xa xôi.
Hè về từ tháng sáu
Sân trường lất phất mưa
Bâng khuâng hồn hai đứa
Bơ vơ gió cuối mùa.
Hè về từ tháng sáu
Náo nức một mùa thi
Lặng trao chùm phượng vĩ
Áo trắng ngày ta đi.
Hè về từ tháng sáu
Mực tím dần phôi pha
Ngậm ngùi lên hoa lá
Nẻo xưa nắng nhạt nhòa.
1994
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả:
Nhiều người có nói với tôi "hè về" phải là tháng tư, cũng có người bảo "hè về" phải là tháng năm. Nhưng tôi lại nghĩ "hè về" thật sự là tháng sáu. Lúc đó học sinh chúng tôi bắt đầu chính thức nghỉ học và bước vào mùa thi cuối cấp: